Thông tư có hiệu lực từ ngày 01/3/2011 với những nội dung chủ yếu sau đây:
a) Điều 1 - Phạm vi áp dụng
Thông tư này hướng dẫn về đăng ký lần đầu, đăng ký thay đổi, xoá đăng ký và cung cấp thông tin trực tuyến giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo kê biên tài sản thi hành án thực hiện thông qua hệ thống đăng ký trực tuyến của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm. Việc đăng ký và cung cấp thông tin trực tuyến giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình kiến trúc khác, cây rừng, cây lâu năm không thuộc phạm vi áp dụng của Thông tư này.
b) Điều 5 - Thời điểm đăng ký trực tuyến
Xuất phát từ đặc thù của phương thức đăng ký trực tuyến, nên Thông tư đã quy định: thời điểm đăng ký trực tuyến là thời điểm nội dung về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo về kê biên tài sản thi hành án được cập nhật vào Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm. Đồng thời để tránh những tranh chấp có thể phát sinh do thời gian ghi nhận của máy tính nối mạng của khách hàng và thời gian ghi nhận của hệ thống đăng ký trực tuyến khác nhau, Thông tư đã quy định thời điểm đăng ký trực tuyến được xác định theo thời gian ghi nhận của hệ thống ứng dụng đăng ký trực tuyến.
c) Điều 6 - Cấp tài khoản đăng ký trực tuyến cho khách hàng thường xuyên
Nhằm đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước và an toàn, an ninh mạng đối với hoạt động của hệ thống đăng ký trực tuyến, Thông tư quy định Cục Đăng ký cấp tài khoản đăng ký trực tuyến cho khách hàng thường xuyên. Theo đó, tổ chức, cá nhân phải gửi Hồ sơ đề nghị cấp tài khoản đăng ký trực tuyến đến Cục Đăng ký để được cấp tài khoản đăng ký trực tuyến. Quy định này nhằm xác thực người yêu cầu đăng ký, đồng thời đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước đối với hoạt động đăng ký trực tuyến.
d) Điều 7 - Sử dụng tài khoản đăng ký trực tuyến
Nhằm nâng cao trách nhiệm của khách hàng thường xuyên trong việc sử dụng tài khoản đăng ký trực tuyến và thanh toán lệ phí đăng ký, phí cung cấp thông tin, Thông tư quy định về thủ tục tạm khoá, khoá tài khoản đăng ký trực tuyến trong trường hợp khách hàng thường xuyên không thanh toán lệ phí đăng ký, phí cung cấp thông tin theo thông báo của hệ thống đăng ký trực tuyến hoặc không sử dụng tài khoản đăng ký trực tuyến trong thời hạn 6 tháng.
Trường hợp khách hàng thường xuyên có nhu cầu sử dụng lại tài khoản đăng ký trực tuyến thì nộp Đơn yêu cầu kích hoạt lại tài khoản đến Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm để được kích hoạt lại tài khoản. Tuy nhiên, trường hợp khách hàng bị khoá tài khoản do không thực hiện nghĩa vụ thanh toán thì Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm chỉ kích hoạt lại tài khoản đăng ký trực tuyến khi khách hàng đã thanh toán đầy đủ lệ phí đăng ký, phí cung cấp thông tin theo thông báo của hệ thống đăng ký trực tuyến.
đ) Điều 8 - Trường hợp đăng ký trực tuyến không có giá trị pháp lý
Thông tư quy định rõ, việc đăng ký trực tuyến không có giá trị pháp lý trong trường hợp: (1) việc đăng ký không thuộc trường hợp đăng ký, thông báo trực tuyến quy định tại các Điều 2, 3, 4 của Thông tư; và (2) Nội dung đăng ký vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
e) Điều 9 - Thanh toán lệ phí đăng ký, phí cung cấp thông tin giao dịch bảo đảm, hợp đồng trực tuyến
Thông tư quy định khách hàng thường xuyên thanh toán lệ phí đăng ký, phí cung cấp thông tin theo một trong các phương thức: nộp tiền trực tiếp tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản (sau đây gọi là Trung tâm Đăng ký) hoặc nộp tiền vào tài khoản của Trung tâm Đăng ký tại Ngân hàng hoặc thanh toán trực tuyến qua thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ hoặc thanh toán ủy nhiệm thu, thanh toán ủy nhiệm chi qua Kho bạc Nhà nước hoặc thanh toán từ số tiền tạm ứng đã nộp vào tài khoản của Trung tâm Đăng ký.
Đối với khách hàng không thường xuyên thì thanh toán theo phương thức: nộp trực tiếp tại Trung tâm Đăng ký hoặc nộp tiền vào tài khoản của Trung tâm Đăng ký tại ngân hàng hoặc thanh toán trực tuyến qua thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ trong trường hợp thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ được hệ thống đăng ký trực tuyến chấp nhận.
g) Về trình tự, thủ tục đăng ký trực tuyến (Điều 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18)
Thông tư quy định trình tự, thủ tục đăng ký trực tuyến bao gồm các bước: Truy cập vào hệ thống đăng ký trực tuyến (Điều 12) và thực hiện việc kê khai nội dung yêu cầu đăng ký trực tuyến (Điều 13). Bên cạnh đó, Thông tư cũng quy định, trong trường hợp nội dung đăng ký giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo kê biên tài sản thi hành án thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 8 của Thông tư, thì người giám sát hệ thống đăng ký trực tuyến có trách nhiệm báo cáo người có thẩm quyền xem xét, quyết định xóa nội dung đăng ký, thông báo kê biên (Điều 18).
Ngoài ra, do đặc thù của phương thức đăng ký trực tuyến là đơn yêu cầu đăng ký trực tuyến không có chữ ký và con dấu trực tiếp thể hiện ý chí của các bên tham gia giao dịch bảo đảm, hợp đồng như đối với đơn yêu cầu đăng ký được gửi bằng phương thức trực tiếp, qua đường bưu điện, qua fax, nên dễ dẫn đến tình trạng, việc đăng ký thay đổi, xoá đăng ký không thể hiện đúng thoả thuận của các bên tham gia giao dịch bảo đảm, hợp đồng, ví dụ như trường hợp bên nhận bảo đảm là người đăng ký giao dịch bảo đảm lần đầu, nhưng vì lí do nào đó, bên bảo đảm lại đi đăng ký thay đổi, xoá đăng ký không đúng với nội dung đã thoả thuận trong hợp đồng bảo đảm, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo đảm. Vì vậy, để tránh tình trạng này xảy ra, Điều 17 Thông tư quy định: hệ thống đăng ký trực tuyến cấp mã cá nhân (mã pin) cho người đăng ký giao dịch bảo đảm, hợp đồng lần đầu để thực hiện việc đăng ký thay đổi, xoá đăng ký trực tuyến giao dịch bảo đảm, hợp đồng. Người được cấp mã cá nhân có trách nhiệm bảo mật thông tin liên quan đến mã cá nhân đã được hệ thống đăng ký trực tuyến cấp.
Trường hợp giao dịch bảo đảm, hợp đồng được đăng ký lần đầu bằng phương thức trực tiếp, qua đường bưu điện hoặc qua fax thì người yêu cầu đăng ký có quyền yêu cầu Trung tâm Đăng ký (nơi thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm, hợp đồng lần đầu) cung cấp mã cá nhân để thực hiện đăng ký thay đổi, xoá đăng ký trực tuyến giao dịch bảo đảm, hợp đồng.
h) Về cung cấp thông tin (Điều 19, Điều 20, Điều 21, Điều 22)
Thông tư quy định về hai hình thức cung cấp thông tin, đó là tự tra cứu thông tin và yêu cầu cung cấp thông tin (Điều 19). Bên cạnh đó, Thông tư cũng đã quy định các tiêu chí tìm kiếm thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, tài sản kê biên thông qua hệ thống đăng ký trực tuyến bao gồm: (1) giấy tờ xác định tư cách pháp lý của bên bảo đảm, (2) số khung phương tiện giao thông cơ giới và (3) số đơn đăng ký giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo kê biên tài sản thi hành án.
i) Điều 24 - Điều khoản chuyển tiếp
Thông tư quy định về hai nội dung chuyển tiếp, đó là:
- Trong trường hợp tổ chức, cá nhân đã được công nhận tư cách khách hàng thường xuyên trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành thì Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm có trách nhiệm chủ động rà soát, cấp và thông báo tài khoản đăng ký trực tuyến cho khách hàng để thực hiện việc đăng ký trực tuyến giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo kê biên tài sản thi hành án.
- Trong trường hợp tổ chức, cá nhân yêu cầu đăng ký thay đổi, xoá đăng ký giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo kê biên tài sản thi hành án đã được đăng ký trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành thì tổ chức, cá nhân đó có quyền lựa chọn một trong các phương thức đăng ký là trực tiếp, qua đường bưu điện, qua fax, qua thư điện tử hoặc thông qua hệ thống đăng ký trực tuyến.
Trên đây là những nội dung cơ bản của Thông tư số 22/2010/TT-BTP hướng dẫn về đăng ký, cung cấp thông tin trực tuyến giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi hành án.
Nguyễn Quang Hương Trà