Nội luật hóa vấn đề bình đẳng giới theo Công ước CEDAW trong pháp luật Việt Nam

19/06/2018
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Trong những năm qua, bình đẳng giới luôn là mục tiêu quan trọng và nhất quán được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thực hiện với mục đích xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, phù hợp với đặc thù của mỗi giới; tạo cơ hội phát triển như nhau cho nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình; bảo đảm bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ.

Là một trong số những quốc gia đầu tiên trên thế giới tham gia Công ước Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW), đại diện Chính phủ đã ký tham gia ngày 29/7/1980, Hội đồng Nhà nước phê chuẩn vào ngày 27/11/1981. CEDAW có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày 19/3/1982. CEDAW luôn được coi là một trong những công ước quan trọng hàng đầu về quyền con người vì đã khẳng định lại các quyền không thể tước bỏ của của phụ nữ, bao gồm: các quyền trong lĩnh vực chính trị; các quyền trong lĩnh vực dân sự và kinh tế; các quyền trong lĩnh vực giáo dục; các quyền trong lĩnh vực y tế; các quyền trong lĩnh vực xã hội; các quyền trong lĩnh vực tư pháp và hình sự; các quyền trong lĩnh vực gia đình; và đặc biệt để bảo đảm sự tham gia bình đẳng của phụ nữ vào việc phát triển nông thôn cũng như hưởng lợi từ sự phát triển đó, CEDAW còn quy định các quyền đặc thù của phụ nữ nông thôn.
Là thành viên của Công ước, Việt Nam luôn tích cực tổ chức thực hiện và hoàn thành các báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện CEDAW, đặc biệt là việc nội luật hóa CEDAW vào pháp luật trong nước. “Nội luật hóa điều ước quốc tế” hay “chuyển hóa điều ước quốc tế” được hiểu là chuyển hóa các điều ước quốc tế thành quy phạm pháp luật trong nước và thi hành các điều ước quốc tế đó trên cơ sở các quy phạm pháp luật trong nước vốn là quy phạm của điều ước quốc tế. Nội luật hóa là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành các hoạt động cần thiết để chuyển hóa các quy phạm của điều ước quốc tế thành quy phạm của pháp luật quốc gia bằng cách sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện điều ước quốc tế hoặc tiến hành chuyển hóa quy phạm của điều ước quốc tế vào pháp luật trong nước.
Như vậy nội luật hóa CEDAW trong pháp luật Việt Nam có thể hiểu là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành các hoạt động cần thiết để chuyển hóa các quy định của CEDAW thành quy phạm pháp luật trong nước thông qua việc sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới cho phù hợp với nội dung của CEDAW hoặc đưa các quy định của CEDAW vào nội dung của các văn bản sửa đổi, bổ sung, ban hành mới. Có thể thấy, từ khi gia nhập CEDAW đến nay, việc nội luật hóa CEADAW trong hệ thống pháp luật Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
1. CEDAW và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Quyền bình đẳng giữa nam và nữ đã được ghi nhận trong Hiến pháp đầu tiên năm 1946 trước cả khi Việt Nam ký kết CEDAW hơn 30 năm và ngày càng được cụ thể hơn trong các bản Hiến pháp tiếp theo và tại Hiến pháp 2013, quyền bình đẳng năm nữ tiếp tục được phát triển và nội luật hóa CEDAW theo hướng đảm bảo bình đẳng thực chất, phù hợp với xu thế chung về bình đẳng giới và  triệt để loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Theo đó, Hiến pháp 2013 ghi nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của phụ nữ và nam giới (khoản 1 Điều 16), bình đẳng trong kết hôn và ly hôn (khoản 1 Điều 36); nhấn mạnh vai trò của Nhà nước, xã hội và gia đình trong việc bảo vệ phụ nữ và trẻ em (khoản 2 Điều 26, khoản 2 Điều 36); không phân biệt đối xử giữa nam và nữ (khoản 2 Điều 16, khoản 3 Điều 36).
2. CEDAW trong một số lĩnh vực pháp luật cụ thể
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, việc nội luật hóa CEDAW trong các văn bản quy phạm pháp luật được thể hiện một cách rõ ràng, cụ thể, ngày càng đảm bảo tốt hơn quyền bình đẳng của phụ nữ. Năm 2006, Luật Bình đẳng giới ra đời, đánh dấu bước tiến mới trong việc hoàn thiện khunh khổ pháp lý về bình đẳng giớ của Việt Nam. Luật đã đề cập đầy đủ các quyền của phụ nữ được quy định trong Công ước và 6 nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới của Luật được xây dựng trên cơ sở nền tảng từ chính các nguyên tắc của CEDAW. Bên cạnh Luật Bình đẳng giới, nhiều quy định về bình đẳng giới đã được đưa vào các văn bản quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Thứ nhất, trong lĩnh vực chính trị. Để đảm bảo quyền bình đẳng trên lĩnh vực chính trị của phụ nữ, trước hết phải kể đến quyền bầu cử và ứng cử. Đây là quyền lợi chính trị cực kỳ quan trọng của phụ nữ Việt Nam. Điều 6, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”; Điều 27 quy định: "Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định". Điều 8, Điều 9, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định: “Số lượng phụ nữ được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do UBTV Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Đoàn Chủ tịch BCH Trung ương Hội LHPN Việt Nam, bảo đảm có ít nhất ba mươi lăm phần trăm tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu HĐND là phụ nữ”. Tại khoản 5, Điều 11 Luật Bình đẳng giới năm 2006 quy định các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị. Theo quy định này, các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm: a) Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới; b) Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.”
Với các quy định trên cho thấy, pháp luật Việt Nam đã có những quy định để phụ nữ và nam giới bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội, tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy chế của cơ quan, tổ chức; tham gia thảo luận, kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; bình đẳng về tiêu chuẩn, chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức.
Thứ hai, trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Đúng với tinh thần chung của CEDAW về xóa bỏ những định kiến và phân biệt đối xử với phụ nữ, Bộ luật Dân sự Việt Nam quy định phụ nữ và nam giới bình đẳng về quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự. Tất cả các quyền dân sự của cá nhân đều được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Mọi công dân đều có quyền tự do đi lại, tự do cư trú, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do nghiên cứu khoa học – kỹ thuật, phát minh, sang chế, sang kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo khác.
Thứ ba, trong lĩnh vực lao động. Việc làm mang lại cho phụ nữ những lợi ích thiết thực và tạo điều kiện để phụ nữ thực sự có tiếng nói bình đẳng trong gia đình và ngoài xã hội, vì vậy việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động là đặc biệt quan trọng. Phụ nữ cũng như nam giới có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nơi làm việc, nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo. Nam, nữ bình đẳng về cơ hội, tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn chức danh, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác. Bộ luật Lao động dành hẳn một chương riêng (chương X) quy định về lao động nữ với các chính sách của nhà nước để bảo đảm quyền làm việc bình đẳng của lao động nữ. Bên cạnh đó, thực hiện đúng tinh thần của CEDAW, các biện pháp bảo vệ phụ nữ khi thực hiện chức năng sinh đẻ và nuôi con không bị coi là phân biệt đối xử và đã được đưa vào trong Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội.
Thứ tư, trong lĩnh vực y tế. Pháp luật đảm bảo quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe và bình đẳng trong các dịch vụ y tế và nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh của mọi công dân. Nam nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động truyền thông về chăm sóc sức khỏe, sức khỏe giới tính; bình đẳng trong việc lựa chọn các biện pháp tránh thai, biện pháp an toàn tình dục, phòng chống HIV/ADSI. Trong khám bệnh, chữa bệnh phụ nữ cũng như nam giới được tôn trọng danh dự, tuổi tác, giới tính, dân tộc, được giữ bí mật hồ sơ bệnh án, được chủ động lựa chọn các hình thức khám chữa bệnh mà không bị kỳ thị, ép buộc khám bệnh, chữa bệnh. Bên cạnh các quy định bình đẳng giữa nam và nữ còn có các quy định đặc thù nhằm bảo vệ, hỗ trợ phụ nữ với tư cách là người mẹ, chẳng hạn như: phụ nữ nghèo ở vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, trừ các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, khi sinh con đúng chính sách dân số được hỗ trợ 2 triệu đồng/người.
Thứ năm, trong lĩnh vực giáo dục. Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân (Điều 39 Hiến pháp 2013). Mọi công dân không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập. Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành (Điều 10 Luật Giáo dục 2005). Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật trong lĩnh vực giáo dục cũng quy định rất rõ, nam nữ bình đẳng trong độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng; bình đẳng trong việc lựa chọn ngành nghề học tập, đào tạo; bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.
Thứ sáu, trong lĩnh vực gia đình. Nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo Luật hôn nhân và gia đình thì có quyền tự do kết hôn. Trong hôn nhân, vợ chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong tạo lập, sử dụng, quyết định tài sản chung; bình đẳng trong việc quyết định thời gian và khoảng cách sinh con và trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn. Tuy nhiên, trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi chồng không có quyền yêu cầu ly hôn. Pháp luật nghiêm cấm hành vi bạo lực gia đình, quy định các biện pháp phòng ngừa và xử lý hành vi bạo lực gia đình. Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, hỗ trợ kịp thời, trong đó ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người già, người tàn tật và phụ nữ.
Thứ bảy, bình đẳng giới trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới bằng cách xác định vấn đề giới, dự báo tác động giới của văn bản, trách nhiệm, nguồn lực để giải quyết vấn đề giới trong các quan hệ xã hội được văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh. Bình đẳng giới trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được quy định rất cụ thể trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, thể hiện xuyên xuốt trong cả quá trình:
- Trong giai đoạn sáng kiến pháp luật: trong trường hợp xác định có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới trong phạm vi điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức, cá nhân đề nghị, kiến nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm dự kiến những chính sách và biện pháp để bảo đảm bình đẳng giới hoặc để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới trong bản thuyết minh đề nghị, kiến nghị xây dựng văn bản. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đề xuất có trách nhiệm thể hiện việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong đề xuất xây dựng văn bản quy phạm pháp luật qua bản thuyết minh về đề nghị xây dựng văn bản Báo cáo đánh giá tác động sơ bộ gửi cơ quan lập đề nghị Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Cơ quan lập đề nghị Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới thông qua việc xác định nội dung liên quan đến vấn đề giới trong các văn bản được đề xuất; kiểm tra hồ sơ, đánh giá nội dung lồng ghép vấn đề bình đẳng giới theo quy định của pháp luật.
- Trong giai đoạn soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật: việc thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập hoặc Tổ soạn thảo phải bảo đản sự tham gia của đại diện Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, đồng thời bảo đảm sự tham gia bình đẳng của nam và nữ trong Ban soạn thảo, Tổ biên tập hoặc Tổ soạn thảo đối với các dự thảo văn bản được xác định có vấn đề về bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới. Trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới, cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm: phân tích, đánh giá giới; xác định nguyên nhân của vấn đề giới và đánh giá thực trạng bình đẳng giới đối với các văn bản quy phạm pháp luật xây dựng mới để đưa ra báo cáo phản ánh chi tiết các vấn đề có liên quan; đề xuất các giải pháp để giải quyết vấn đề giới; đánh giá tác động của chính sách, giải pháp để giải quyết vấn đề giới trên thực tế ; xác dịnh trách nhiệm và nguồn lực để giải quyết vấn đề giới trong dự kiến chính sách, dự thảo văn bản; bảo đảm sự tham gia của đại diện cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và tham vấn, lấy ý kiến trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.
- Trong giai đoạn thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan thẩm định cần xác định: sự cần thiết quy định chính sách về giới; sự phù hợp, tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của quy định chính sách về bình đẳng giới với hệ thống pháp luật và điều ước quốc tế có liên quan; tính hợp lý, tính khả thi của các biện pháp giải quyết vấn đề bình đẳng giới; việc bảo đảm các nguyên tắc về bình đẳng giới; việc tuân thủ quy trình, thủ tục lồng ghép vấn đề bình đẳng giới.
- Trong giai đoạn thẩm tra dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan thẩm tra: xác định vấn đề giới; việc bảo đảm các nguyên tắc về bình đẳng giới; việc tuân thủ thủ tục và trình tự đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới; tính khả thi của dự án, dự thảo để bảo đảm bình đẳng giới.
- Trong giai đoạn thông qua: thảo luận về những chính sách có thể gây ảnh hưởng bất bình đẳng giới, những vấn đề giới còn chưa được giải quyết trong dự thảo văn bản do còn có ý kiến khác nhau. Cuối cùng là biểu quyết thông qua dự thảo văn bản.
Nhìn chung, các điều khoản của CEDAW đã dần dần được nội luật hóa khá đầy đủ vào hệ thống pháp luật của Việt Nam. Việc thực thi pháp luật đã mang lại những cải thiện đáng kể cho vị thế và đời sống của người phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Bên cạnh những thành tích đáng tự hào kể trên chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng, cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, việc thực hiện Công ước CEDAW ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Còn khoảng cách lớn giữa các quy định của pháp luật, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước với thực tiễn cuộc sống, còn nhiều biểu hiện phân biệt đối xử, chống lại phụ nữ. Ở nơi này, nơi khác còn có tình trạng định kiến, phân biệt đối xử với phụ nữ. Tệ ngược đãi phụ nữ, mại dâm, buôn bán phụ nữ trẻ em, bệnh dịch HIV/AIDS, tệ nạn xã hội…vẫn đang diễn biến phức tạp. Thực tế đó dẫn tới mức độ thụ hưởng quyền bình đẳng của phụ nữ ngoài xã hội cũng như trong phạm vi gia đình chưa cao. Nhận xét về Việt Nam, Uỷ ban Công ước cho rằng: “Nền văn hoá mang đậm tính gia trưởng và việc đề cao vai trò truyền thống của nam giới và phụ nữ là những trở ngại đối với việc thực hiện đầy đủ CEDAW”. Điều này cho thấy nhiệm vụ giáo dục, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới trong cán bộ và nhân dân cần được quan tâm hơn nữa. Công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ ở các ngành, các cấp cần tập trung vào khắc phục sự cách biệt giới hiện đang tồn tại trong các lĩnh vực đồng thời phòng ngừa, giải quyết có hiệu quả các tệ nạn xã hội đang tác động tới phụ nữ. Tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa việc áp dụng CEDAW trong quá trình xây dựng pháp luật.
Có thể nói rằng, sau gần bốn mươi năm tham gia CEDAW, Việt Nam đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quốc gia đối với Công ước và đạt những thành tựu rất đáng khích lệ. Đó là cơ sở vững chắc để Nhà nước và nhân dân ta quyết tâm phấn đấu cho sự nghiệp bình đẳng giới và tiến bộ cho phụ nữ Việt Nam.
Đỗ Mai


Tài liệu tham khảo:
- Hiến pháp 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật được viện dẫn;
- Báo cáo rà soát bộ công cụ lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và kiến nghị, Dự án 58492, “Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam”, 2013.
- CEDAW và bình đẳng giới ở Việt Nam, Tài liệu tập huấn về CEDAW, Dự án VNM8P06, 2012
- Tài liệu Hội thảo “Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật” tại thành phố Hà Nội, ngày 20/4/2015.