Bài viết xin trao đổi về một số nội dung trong quá trình triển khai tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý (TGPL) như sau:
1. Về tổ chức thực hiện TGPL
- Mối quan hệ giữa các quy định về tổ chức bộ máy của Trung tâm TGPL Nhà nước tại Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 - 2025 (ban hành kèm theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 01/6/2015), Luật TGPL năm 2017, Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều của Luật TGPL, Thông tư liên tịch số 08/2008/TTLT-BTP-BNV ngày 07/11/2008 của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn về tổ chức và biên chế của Trung tâm TGPL
Có ý kiến cho rằng cần ban hành văn bản pháp luật quy định chung thống nhất về mô hình tổ chức bộ máy của Trung tâm bảo đảm tính thống nhất giữa Đề án đổi mới với Luật TGPL, Nghị định số 144/2017/NĐ-CP, Thông tư liên tịch số 08/2008/TTLT-BTP-BNV. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy rằng, Đề án đổi mới công tác TGPL đã đặt ra mục tiêu của giai đoạn từ khi Luật TGPL (sửa đổi) có hiệu lực đến năm 2025 là triển khai có hiệu quả Luật TGPL. Do đó, về nội dung tổ chức của Trung tâm TGPL nhà nước, hiện nay đang được áp dụng thống nhất theo các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp luật sau: Luật TGPL năm 2017, Nghị định số 144/2017/NĐ-CP, Thông tư liên tịch số 08/2008/TTLT-BTP-BNV.
- Về quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm TGPL
Có ý kiến cho rằng để triển khai Luật TGPL năm 2017 thì tất cả các Trung tâm TGPL nhà nước phải ban hành quy chế tổ chức và hoạt động mới. Tuy nhiên, có thể thấy răng Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm TGPL Nhà nước không phải là văn bản quy định chi tiết Luật TGPL năm 2006, do vậy, Quy chế này không đương nhiên hết hiệu lực toàn bộ. Mặt khác, các vấn đề về tổ chức và hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước đã được quy định tại Luật TGPL năm 2017, Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 và Thông tư liên tịch số 08/2008/TTLT-BTP-BNV. Do đó, trong quá trình triển khai Quy chế phát hiện ra vấn đề mâu thuẫn với các quy định của Luật TGPL năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì có thể rà soát để bãi bỏ các quy định đó.
Trong trường hợp địa phương thấy cần thiết phải hướng dẫn cụ thể hơn thì đề nghị Sở Tư pháp tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh bãi bỏ Quyết định ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước (bởi vì theo Điều 2 Quyết định số 02/2008/QĐ-BTP ngày 28/02/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước, thẩm quyền ban hành Quy chế là UBND cấp tỉnh). Sau đó Sở Tư pháp ban hành quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Trung tâm TGPL nhà nước để bảo đảm phù hợp với các quy định của pháp luật (bởi vì theo khoản 11 Điều 4 Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định Sở có nhiệm vụ, quyền hạn quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của sở theo hướng dẫn chung của Bộ quản lý ngành, lĩnh vực và theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh).
- Về các bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ của Trung tâm TGPL
Tại khoản 3 Điều 3 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP quy định Trung tâm có thể có các bộ phận chuyên môn thích hợp để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo Luật TGPL và pháp luật về đơn vị sự nghiệp công lập. Trong khi đó, vấn đề về cơ cấu tổ chức Trung tâm TGPL hiện nay đang thực hiện theo Thông tư liên tịch số 08/2008/TTLT-BTP-BNV ngày 07/11/2008 và Thông tư này không phải là văn bản quy định chi tiết Luật TGPL năm 2006, do đó vẫn còn hiệu lực pháp luật. Do đó, căn cứ vào số lượng biên chế được giao, nhu cầu TGPL, khối lượng công việc, … các địa phương vận dụng quy định của Thông tư này linh hoạt, phù hợp với thực tế, bảo đảm sử dụng có hiệu quả nguồn lực hiện có.
- Về Chi nhánh đã được thành lập theo Luật TGPL năm 2006
Có ý kiến băn khoăn về điều kiện thành lập Chi nhánh quy định tại khoản 2 Điều 11 Luật TGPL năm 2017 và Điều 6 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP có áp dụng với các Chi nhánh đã được thành lập theo Luật TGPL năm 2006 không?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 11, khoản 4 Điều 48 Luật TGPL năm 2017, Điều 6 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP, có thể thấy rằng các điều kiện thành lập chỉ áp dụng trong trường hợp thành lập Chi nhánh mới. Đối với các Chi nhánh đã được thành lập theo Luật TGPL năm 2006, Luật TGPL năm 2017 và Quyết định số 1355/QĐ-TTg ngày 12/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật TGPL đã giao nhiệm vụ cho UBND cấp tỉnh trong thời hạn 01 năm kể từ ngày 01/01/2018 thực hiện việc rà soát và và căn cứ vào nhu cầu TGPL, nguồn lực thực hiện TGPL và hiệu quả hoạt động báo cáo Bộ Tư pháp để thống nhất việc duy trì, sáp nhập hoặc giải thể. Thủ tục sáp nhập, giải thể Chi nhánh được thực hiện theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017.
2. Áp dụng văn bản quy định vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn tại khoản 4 Điều 7 Luật TGPL
Thông tư liên tịch số 01/2012/TTLT-BTP-UBDT ngày 17/01/2012 của Bộ Tư pháp và Ủy ban Dân tộc hướng dẫn thực hiện TGPL đối với người dân tộc thiểu số không phải là văn bản quy định chi tiết Luật TGPL năm 2006, do đó vẫn còn hiệu lực pháp luật. Theo đó, tại điểm a khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch: “Người thường xuyên sinh sống (đã đăng ký thường trú, đã đăng ký tạm trú hoặc có xác nhận của Công an xã, phường, thị trấn) ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn (xã, phường, thị trấn thuộc vùng khó khăn và xã, thôn, bản có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn) theo quy định của pháp luật”. Vì vậy, hiện nay “vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn” áp dụng cho người dân tộc thiểu số theo quy định Luật TGPL năm 2017 bao gồm các đơn vị hành chính sau đây:
- Xã, phường, thị trấn thuộc vùng khó khăn được quy định tại Quyết định số 1049/QĐ-TTg ngày 26/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn).
- Xã đặc biệt khó khăn, bao gồm:
+ Xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thuộc vùng dân tộc và miền núi là xã khu vực III được quy định tại Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016 – 2020.
+ Các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo là các xã được quy định tại Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 25/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ ngày về việc phê duyệt danh sách các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo giai đoạn 2016 – 2020.
- Thôn đặc biệt khó khăn được quy định tại Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016 – 2020.
3. Về người thực hiện TGPL
- Trường hợp luật sư là thành viên của tổ chức tham gia TGPL (có thể đăng ký tham gia hoặc ký hợp đồng thực hiện TGPL) thì có được ký hợp đồng thực hiện TGPL với Trung tâm TGPL?
Theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 14 Luật TGPL năm 2017 thì một trong những điều kiện để luật sư ký hợp đồng với Trung tâm TGPL nhà nước là “được sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đang làm việc hoặc cơ quan, tổ chức mà luật sư ký hợp đồng lao động”. Như vậy, trong trường hợp được sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức mình đang làm việc thì luật sư được ký hợp đồng với Trung tâm TGPL. Tuy nhiên, vụ việc do luật sư thực hiện tư cách cá nhân và tư cách thành viên tổ chức tham gia TGPL phải được bóc tách, không thống kê trùng lắp.
- Đối với Cộng tác viên theo Luật TGPL năm 2006
Theo quy định tại khoản 2 Điều 48 Luật TGPL năm 2017, trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Luật TGPL có hiệu lực thi hành, người tham gia TGPL theo Luật TGPL năm 2006 phải đáp ứng yêu cầu của Luật này, trong trường hợp không đáp ứng yêu cầu của Luật này thì chấm dứt tham gia TGPL. Cụ thể đối với cộng tác viên TGPL ký hợp đồng theo Luật TGPL năm 2006, trong năm 2018 phải đáp ứng yêu cầu của Điều 24 Luật TGPL năm 2017, nếu không đáp ứng thì chấm dứt tư cách cộng tác viên TGPL. Như vậy, căn cứ pháp lý để chấm dứt tư cách cộng tác viên TGPL theo Luật TGPL năm 2006 là khoản 2 Điều 48 và Điều 24 Luật TGPL năm 2017.
Như vậy, các Trung tâm TGPL không đơn phương chấm dứt hợp đồng đối với các cộng tác viên TGPL theo Luật TGPL năm 2006. Đối với cộng tác viên TGPL thực hiện TGPL có hiệu quả, không vi phạm quy tắc nghề nghiệp TGPL và được người được TGPL yêu cầu thực hiện TGPL thì Trung tâm TGPL nhà nước tiếp tục phân công cộng tác viên TGPL đó thực hiện TGPL. Trong trường hợp luật sư cộng tác viên có nguyện vọng chấm dứt hợp đồng cộng tác để ký hợp đồng mới thì Trung tâm lựa chọn, ký hợp đồng thực hiện TGPL với luật sư thực hiện TGPL có chất lượng và đủ điều kiện theo quy định của Luật TGPL năm 2017 và Thông tư số 08/2017/TT-BTP ngày 15/11/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều của Luật TGPL và hướng dẫn giấy tờ trong hoạt động TGPL.
4. Thụ lý hoặc từ chối thụ lý trong trường hợp vụ việc tư vấn pháp luật đã được thực hiện nhưng người được TGPL vẫn không hài lòng và sau đó tiếp tục làm đơn yêu cầu TGPL với nội dung tương tự như nội dung đã yêu cầu, không có tình tiết mới phát sinh?
Trong trường hợp này, người được TGPL đã được thực hiện TGPL và sau đó tiếp tục làm đơn yêu cầu TGPL với nội dung tương tự như nội dung đã yêu cầu, không có tình tiết mới phát sinh thì yêu cầu TGPL này chính là yêu cầu TGPL đã được thụ lý và thực hiện. Tại Điều 10 Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 đã xác định vấn đề này khi quy định "thực hiện xong yêu cầu hợp pháp của người được TGPL theo hình thức TGPL thể hiện trong đơn yêu cầu TGPL" là một trong các trường hợp để xác định vụ việc TGPL kết thúc. Do đó, yêu cầu TGPL này không phải yêu cầu TGPL mới nên không phát sinh vấn đề thụ lý mới hay từ chối thụ lý yêu cầu TGPL. Người được TGPL sau khi được tư vấn pháp luật mà không hài lòng với kết quả thực hiện TGPL của Trung tâm TGPL nhà nước thì có thể liên hệ để phản ánh và tiếp tục trao đổi về các quy định pháp luật và phương án giải quyết vụ việc của mình.
5. Phân biệt vụ việc TGPL và việc thực hiện giải đáp các vướng mắc pháp luật đơn giản
Trong Luật TGPL năm 2017 quy định việc thực hiện vụ việc TGPL và việc giải đáp vướng mắc pháp luật đơn giản. Tuy nhiên, việc thực hiện hai hoạt động này là khác nhau. Tại Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 đã quy định việc trợ giúp pháp lý, qua đó, đã phân biệt rõ giữa việc thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý và việc trợ giúp pháp lý, cụ thể như sau:
Vụ việc TGPL phải là các cụ việc cụ thể liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL phù hợp với quy định của Luật TGPL. Do đó, vụ việc TGPL phải qua bước nộp hồ sơ, kiểm tra hồ sơ, do người thực hiện TGPL thực hiện, phải lập thành hồ sơ vụ việc và được thống kê thành vụ việc TGPL trong Sổ thụ lý, theo dõi vụ việc TGPL.
Việc TGPL là việc hướng dẫn, giải đáp, cung cấp thông tin pháp luật trong trường hợp yêu cầu TGPL là vướng mắc pháp luật đơn giản. Do đó, việc TGPL không phải trải qua bước kiểm tra hồ sơ, thụ lý, do người tiếp nhận thực hiện và thực hiện ngay; không lập thành hồ sơ và được thống kê thành việc TGPL trong Sổ thực hiện việc TGPL.
Tuy nhiên, một điểm lưu ý ở đây là dù vụ việc TGPL hay việc TGPL thì đối tượng thụ hưởng đều là người được TGPL.
6. Việc triển khai thực hiện quy định về các trường hợp thụ lý ngay theo quy định tại khoản 4 Điều 30 Luật TGPL
Với quan điểm lấy người được TGPL làm trung tâm, tại khoản 4 Điều 30 Luật TGPL năm 2017 đã quy định 04 trường hợp cần thiết phải tiền hành thụ lý ngay, kể cả khi người yêu cầu TGPL chưa thể cung cấp đầy đủ giấy tờ theo quy định. Theo đó, để áp dụng thống nhất quy định này, Tại Điều 6 Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 đã hướng dẫn như sau: Trường hợp sắp hết thời hiệu khởi kiện được hiểu là thời hiệu khởi kiện của vụ việc còn dưới 05 ngày làm việc; trường hợp sắp đến ngày xét xử được hiểu là ngày xét xử theo quyết định đưa vụ án ra xét xử còn dưới 05 ngày làm việc; trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng chuyển yêu cầu TGPL là các trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và các trường hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 31 của Luật TGPL mà cơ quan tiến hành tố tụng thông báo cho Trung tâm; và các trường hợp để tránh gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL thì giao cho người đứng đầu tổ chức thực hiện TGPL quyết định.
Đồng thời, Thông tư quy định thời hạn bổ sung giấy tờ, tài liệu trong trường hợp thụ lý ngay tương ứng thời hạn tối đa vụ việc diễn ra và người thực hiện TGPL cũng thực hiện các bước về thủ tục, hạn chế tình trạng vụ việc được người thực hiện TGPL thực hiện xong vụ việc rồi nhưng phát hiện ra người thụ hưởng không thuộc đối tượng được TGPL (thời gian bổ sung giấy tờ chứng minh là người được TGPL là 05 ngày làm việc). Tuy nhiên, để bảo đảm tối đa quyền lợi của người được TGPL ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và các trường hợp bất khả kháng, Thông tư có quy định ngoại lệ về thời gian bổ sung giấy tờ, tài liệu của người được TGPL dài hơn so với thời hạn tối đa vụ việc diễn ra (thời gian bổ sung giấy tờ chứng minh là người được TGPL là 10 ngày làm việc). Trường hợp người yêu cầu TGPL không cung cấp giấy tờ chứng minh là người được TGPL trong thời hạn quy định nêu trên thì vụ việc TGPL không được tiếp tục thực hiện. Việc không tiếp tục thực hiện vụ việc TGPL được tổ chức thực hiện TGPL hoặc người thực hiện TGPL thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người được TGPL.
7. Các nội dung về kinh phí
- Về kinh phí thanh toán thù lao và chi phí cho tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL
Theo quy định tại của Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, căn cứ lập dự toán ngân sách nhà nước hàng năm quy định tại Điều 41 và Điều 42 như sau: “nhiệm vụ cụ thể của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan, tổ chức khác ở trung ương, các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương” (Điều 41) và “dự toán chi thường xuyên được lập trên cơ sở nhiệm vụ được giao, nhiệm vụ được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt” (Điều 42); nội dung công khai ngân sách đối với đơn vị dự toán ngân sách là “dự toán thu, chi ngân sách đã được cấp có thẩm quyền giao, tình hình thực hiện dự toán ngân sách và quyết toán ngân sách đã được cấp có thẩm quyền duyệt” (Điều 48). Trên cơ sở quy định tại Luật Ngân sách nhà nước 2015 thì nguồn kinh phí thanh toán thù lao và chi phí cho tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật ký hợp đồng thực hiện vụ việc do Sở Tư pháp xây dựng dự toán kinh phí hằng năm và thực hiện thanh quyết toán tại Sở Tư pháp. Do đó các Sở Tư pháp phải dự toán kinh phí để thực hiện nhiệm vụ ký hợp đồng thực hiện TGPL gửi Sở Tài chính trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Về cách tính thời gian khoán khi thanh toán thù lao theo buổi làm việc
Tại khoản 1 Điều 13 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 quy định khi áp dụng việc thanh toán thù lao theo buổi làm việc, thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ việc, thời gian gặp gỡ, thời gian chuẩn bị các tài liệu, luận cứ bào chữa, bảo vệ và thời gian thực hiện các công việc hợp lý khác tối đa không quá số buổi trả để thực hiện các công việc này áp dụng theo khoán chi vụ việc.
Như vậy, khi áp dụng việc thanh toán thù lao theo buổi làm việc, đối với các thời gian quy định nêu trên sẽ được tính theo thời gian làm việc thực tế nhưng mức tối đa không quá số buổi trả để thực hiện các công việc này như khi áp dụng theo hình thức khoán chi vụ việc. Đối với thời gian thực hiện các công việc ngoài những trường hợp quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 13 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP sẽ được tính theo thời gian làm việc thực tế và không áp dụng mức tối đa theo hình thức khoán chi vụ việc. Tuy nhiên, khi thanh toán thù lao theo buổi làm việc phải bảo đảm tổng số buổi tối đa cho 01 vụ việc tham gia tố tụng không quá 30 buổi làm việc theo quy định tại đoạn 1 khoản 1 Điều 13 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP.
- Việc thanh toán thù lao, bồi dưỡng cho nhiều người thực hiện TGPL cùng thực hiện 1 vụ việc
Về việc thanh toán chi phí thực hiện vụ việc TGPL trong trường hợp có từ hai người thực hiện TGPL trở lên cùng thực hiện cho 01 người thuộc diện được TGPL thì kinh phí bồi dưỡng phải bảo đảm phù hợp với công sức, thời gian và công việc của mỗi người thực hiện TGPL được phân công khi thực hiện vụ việc TGPL. Chính vì vậy, tại Điều 12 Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ TGPL và quản lý chất lượng vụ việc TGPL đã quy định trách nhiệm của lãnh đạo tổ chức thực hiện TGPL hoặc Trưởng Chi nhánh (nếu được giao) phân công người thẩm định tính hợp lý về thời gian, các công việc đã thực hiện để thanh toán thù lao bồi dưỡng thực hiện vụ việc TGPL theo quy định.
Ngoài ra, Trung tâm TGPL nhà nước cũng cần phải xem xét trong phạm vi ngân sách được cấp hàng năm của đơn vị để bố trí hợp lý số lượng người thực hiện TGPL cho một người thuộc diện được TGPL trong một vụ việc, bảo đảm nguyên tắc tài chính và mỗi người được cử phải được phân công thực hiện các công việc độc lập với người khác, làm đến đâu thanh toán đến đó, tránh chi trùng nhau trong cùng một khâu hoặc công việc trong cùng một vụ việc, bảo đảm tiết kiệm ngân sách nhà nước. Trung tâm cần hướng dẫn người thực hiện TGPL thực hiện lập hồ sơ đề nghị thanh toán chi thực hiện vụ việc TGPL, bảo đảm trình tự, thủ tục và thời hạn thanh quyết toán theo quy định pháp luật.
8. Hồ sơ vụ việc theo từng hình thức TGPL
khoản 2 Điều 38 của Luật TGPL năm 2017 đã quy định hồ sơ vụ việc TGPL nói chung, nhưng đối với từng hình thức TGPL lại chưa có quy định cụ thể. Trong khi đó hồ sơ vụ việc có vai trò quan trọng để phục vụ cho việc đánh giá chất lượng vụ việc TGPL và thống nhất ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, lưu trữ hồ sơ vụ việc khoa học có thể giúp các địa phương tiết kiệm thời gian, tập trung thực hiện vụ việc, thuận lợi cho việc theo dõi, tra cứu. Do đó, Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 đã quy định mỗi hồ sơ vụ việc có một mã số riêng, được lập và phân loại theo từng hình thức TGPL. Thông tư đã hướng dẫn cụ thể hồ sơ vụ việc TGPL theo từng hình thức TGPL và quy định trách nhiệm của tổ chức thực hiện TGPL, Chi nhánh tạo hồ sơ và người thực hiện TGPL cập nhật lên phần mềm quản lý tổ chức và hoạt động TGPL để theo dõi, tra cứu.
Theo đó, hồ sơ vụ việc tham gia tố tụng bao gồm: Các giấy tờ, tài liệu quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật TGPL; quyết định cử người thực hiện TGPL; quyết định thay đổi người thực hiện TGPL (nếu có); bản bào chữa hoặc bản bảo vệ quyền lợi cho người được TGPL có chữ ký, ghi rõ họ tên của người thực hiện TGPL; bản chính hoặc bản sao kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án, quyết định; văn bản tố tụng khác liên quan đến vụ việc TGPL do cơ quan tiến hành tố tụng cấp; văn bản thông báo không tiếp tục thực hiện vụ việc TGPL (nếu có); giấy tờ, tài liệu khác thể hiện quá trình thực hiện vụ việc TGPL; phiếu lấy ý kiến người được TGPL hoặc người thân thích của họ.
Hồ sơ vụ việc tư vấn pháp luật bao gồm: Các giấy tờ, tài liệu quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật TGPL; văn bản tư vấn pháp luật có chữ ký, ghi rõ họ tên của người thực hiện TGPL; văn bản thông báo không tiếp tục thực hiện vụ việc TGPL (nếu có); giấy tờ, tài liệu khác thể hiện quá trình thực hiện vụ việc TGPL.
Hồ sơ vụ việc đại diện ngoài tố tụng bao gồm: Các giấy tờ, tài liệu quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật TGPL; quyết định cử người thực hiện TGPL; quyết định thay đổi người thực hiện TGPL (nếu có); văn bản giải quyết vụ việc của cơ quan có thẩm quyền hoặc văn bản thể hiện kết quả việc đại diện ngoài tố tụng; bản báo cáo về những công việc đã thực hiện và kết quả đạt được trong phạm vi đại diện ngoài tố tụng có chữ ký, ghi rõ họ tên của người thực hiện TGPL; văn bản thông báo không tiếp tục thực hiện vụ việc TGPL (nếu có); giấy tờ, tài liệu khác thể hiện quá trình thực hiện vụ việc TGPL; phiếu lấy ý kiến người được TGPL hoặc người thân thích của họ.
9. Áp dụng văn bản khi giải quyết khiếu nại trong hoạt động TGPL
Việc giải quyết khiếu nại trong hoạt động TGPL được chia thành hai trường hợp tương ứng với việc áp dụng văn bản pháp luật khác nhau, cụ thể:
- Đối với 04 hành vi được quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật TGPL: Các hành vi này không phải là quyết định hành chính, hành vi hành chính, do đó việc giải quyết khiếu nại đối với các hành vi này không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Khiếu nại. Đồng thời, khoản 5 Điều 3 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định: “5. Trường hợp luật khác có quy định khác về khiếu nại và giải quyết khiếu nại thì áp dụng theo quy định của luật đó”. Theo đó, việc giải quyết đối với khiếu nại của các hành vi được nêu tại khoản 1 Điều 45 Luật TGPL phải tuân thủ theo quy định tại khoản 2 Điều 45 Luật TGPL.
- Đối với quyết định xử lý kỷ luật, quyết định xử phạt vi phạm hành chính và quyết định hành chính, hành vi hành chính khác trong hoạt động TGPL thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Khiếu nại thì sẽ áp dụng quy định pháp luật về khiếu nại và các quy định của pháp luật có liên quan./.
- Thanh Trịnh -