Tại Diễn đàn pháp luật năm 2017 với chủ đề “Tăng cường tiếp cận công lý cho người nghèo và nhóm yếu thế” do Bộ Tư pháp phối hợp với Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức ngày 15/9/2017, vấn đề bảo đảm công lý đối với nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới thu hút sự quan tâm đặc biệt của các diễn giả và các đại biểu tham dự.[1] Bài viết sau đây xin giới thiệu một số vấn đề liên quan đến bảo đảm công lý đối với nạn nhân bị bạo lực về khía cạnh giới tại Tòa án nhân dân và đưa ra một số kiến nghị nhằm tăng cường công tác này trong thời gian tới.
1. Bạo lực trên cơ sở giới theo Cao uỷ Liên hợp quốc về người tị nạn và pháp luật Việt Nam
Thuật ngữ bạo
“bạo lực trên cơ sở giới” được sử dụng để phân biệt bạo lực thông thường với bạo lực nhằm vào các cá nhân hoặc nhóm cá nhân trên cơ sở sự phân cấp quyền lực do những khác biệt giới gây nên.
Cao uỷ Liên hợp quốc về người tị nạn (UNHCR, 2003) sử dụng thuật ngữ bạo lực trên cơ sở giới dựa trên Điều 1 và 2 của Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc về Xoá bỏ Bạo lực đối với Phụ nữ năm 1993 và Đề xuất thứ 19, đoạn 6 của Kỳ họp thứ 11 Hội đồng CEDAW. Theo đó, bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực nhằm vào một người dựa trên cơ sở giới tính của người đó. Nó bao gồm các hành động gây ra những tổn hại về thể chất, tâm lý và tình dục, những đe doạ dẫn đến những hành động nói trên, sự ép buộc và những hình thức khác nhằm tước bỏ tự do của người đó. Bạo lực trên cơ sở giới được hiểu là bao gồm nhưng không giới hạn ở những hình thức sau:
a) Bạo lực xảy ra trong gia đình bao gồm đánh đập, bóc lột tình dục, lạm dụng tình dục trẻ em trong gia đình, bạo lực liên quan đến của hồi môn, cưỡng hiếp trong hôn nhân, làm tổn thương bộ phận sinh dục phụ nữ, và những phong tục truyền thống khác tổn hại đến người phụ nữ, bạo lực ngoài mối quan hệ vợ chồng và bạo lực liên quan đến sự bóc lột.
b) Bạo lực xảy ra trong cộng đồng bao gồm cưỡng hiếp, lạm dụng tình dục, đe doạ và quấy rối tình dục tại nơi làm việc, tại các cơ sở giáo dục và bất kỳ đâu, buôn bán phụ nữ và ép buộc hoạt động mại dâm.
c) Bạo lực gây ra bởi hoặc được bỏ qua bởi nhà nước và các tổ chức nơi bạo lực xảy ra, ví dụ như ngăn cản phụ nữ đi bỏ phiếu, lái xe hoặc tham gia làm việc trên thị trường lao động.
Theo một số tác giả, có 4 yếu tố dẫn đến khả năng xuất hiện bạo lực trên cơ sở giới. Đó là: (i) Bất bình đẳng kinh tế; (ii) Tồn tại hình thức sử dụng bạo lực thể chất để giải quyết xung đột; (iii) Sự thống trị và kiểm soát của nam giới trong quá trình ra quyết định; (iv) Hạn chế khả năng tham gia công việc ngoài xã hội của phụ nữ.
[2] Những thiệt hại do bạo lực giới gây ra trong nhiều trường hợp là rất lớn, gồm cả thiệt hại vật chất và tinh thần như chi phí chăm sóc sức khỏe, thiệt hại tài sản của hộ gia đình, mất thu nhập.
Mặc dù, nam giới và trẻ em trai cũng là nạn nhân, song chủ yếu phụ nữ và trẻ em gái là nạn nhân của bạo lực trên cơ sở giới. Bạo lực đối với phụ nữ là một trong các hình thức bạo lực trên cơ sở giới. Tuy nhiên, vì cho đến nay phụ nữ và trẻ em gái là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất và bị tác động nặng nề nhất do bạo lực trên cơ sở giới gây ra cho nên thuật ngữ
“bạo lực đối với phụ nữ” và
“bạo lực trên cơ sở giới” thường được sử dụng như nhau trong nhiều tài liệu.
Tại Việt Nam, cho đến nay, trong các văn bản chính thức chưa đưa ra định nghĩa về bạo lực trên cơ sở giới. Luật Bình đẳng giới năm 2006 đã đề cập đến thuật ngữ
“bạo lực trên cơ sở giới”[3], tuy nhiên, hành vi này không được định nghĩa trước đó. Bên cạnh đó, các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong gia đình cũng được quy định tại Điều 41 Luật Bình đẳng giới 2006, cụ thể như sau:
“1. Cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính.
2. Không cho phép hoặc cản trở thành viên trong gia đình tham gia ý kiến vào việc sử dụng tài sản chung của gia đình, thực hiện các hoạt động tạo thu nhập hoặc đáp ứng các nhu cầu khác của gia đình vì định kiến giới.
3. Đối xử bất bình đẳng với các thành viên trong gia đình vì lý do giới tính.
4. Hạn chế việc đi học hoặc ép buộc thành viên trong gia đình bỏ học vì lý do giới tính.
5. Áp đặt việc thực hiện lao động gia đình, thực hiện biện pháp tránh thai, triệt sản như là trách nhiệm của thành viên thuộc một giới nhất định.”
Cho dù không nêu ra định nghĩa chính thức, về cơ bản, trong các chính sách sử dụng ở Việt Nam, khái niệm bạo lực trên cơ sở giới cơ bản được hiểu như định nghĩa đã được Liên Hợp quốc nêu ra như đã nêu ở trên.
2. Quy định của pháp luật Việt nam về bảo đảm công lý đối với nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới
Ở Việt Nam, việc công nhận, thực thi, bảo vệ quyền con người nói chung và bảo đảm công lý đối với nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới nói riêng là mục tiêu và nguyên tắc cơ bản, nhất quán trong chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các quy định tại Điều 14, Điều 16, Điều 20 và Điều 26 của Hiến pháp năm 2013.
Thứ nhất, công nhận và bảo hộ chính thức bằng hệ thống nghị quyết của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước. Các nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam đều ghi nhận về tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Đặc biệt, ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ-TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong đó xác định mục tiêu “
bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân” để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Bên cạnh đó, Việt Nam là thành viên tích cực của Liên hợp quốc trong việc tham gia và công nhận các công ước quốc tế trực tiếp hoặc gián tiếp về quyền con người nói chung, bình đẳng giới nói riêng: Hiến chương Liên hợp quốc (1945), Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW)… Việt Nam cũng đã và đang từng bước nội luật hóa các công ước này vào pháp luật của Việt Nam: Hiến pháp; Bộ luật dân sự; Luật hôn nhân và gia đình; Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Bộ luật hình sự; Luật bình đẳng giới; Luật người cao tuổi; Luật phòng, chống bạo lực gia đình; Luật quốc tịch; Luật nuôi con nuôi...
Thứ hai, xây dựng hệ thống các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nạn nhân bị bạo lực nói riêng:
- Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện quyền lập hiến, lập pháp ban hành các đạo luật bảo vệ các quyền con người.
[4]
- Chính phủ tổ chức thi hành Hiến pháp, bảo vệ lợi ích của con người, xã hội, quyền công dân, trật tự xã hội. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, có trách nhiệm tổ chức hướng dẫn thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo đảm trật tự an toàn xã hội ở địa phương mình
[5].
- Các cơ quan trực thuộc Chính phủ (Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội…) giúp Chính phủ thi hành việc công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nạn nhân bị bạo lực về khía cạnh giới nói riêng.
- Các cơ quan tư pháp
[6] (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) chịu trách nhiệm xử lý các hành vi vi phạm quyền con người bị bạo lực theo pháp luật hình sự hoặc pháp luật dân sự.
Thứ ba, xây dựng cơ chế phối hợp trách nhiệm giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và cộng đồng trong công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nạn nhân bị bạo lực nói riêng. Trong đó, các tổ chức, cộng đồng có vai trò quan trọng trong phổ biến, tuyên truyền, giáo dục, phát hiện các hành vi vi phạm quyền con người, xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của nạn nhân bị bạo lực để cùng hỗ trợ hoặc tham gia giải quyết khi xảy ra hành vi bạo lực trong phạm vi cộng đồng.
Có thể nói hiện nay pháp luật Việt Nam về bảo đảm công lý đối với nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở về giới ngày một hoàn thiện, đầy đủ, phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng như thực hiện các cam kết của Việt Nam trong các văn kiện quốc tế đã ký kết tham gia, cụ thể như sau:
a) Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 2013 là một bước tiến vượt bậc trong việc bảo vệ các quyền con người và quyền công dân. Bên cạnh việc quy định về quyền công dân, quyền con người cũng được quy định một cách chi tiết và đầy đủ. Nếu trong Hiến pháp năm 1992 chương
“Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” chỉ có 29 điều thì chương
“Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” trong Hiến pháp năm 2013 có 36 điều (tăng 7 điều so với Hiến pháp năm 1992). Nhìn chung, quyền con người có phạm vi chủ thể rộng hơn quyền công dân. Trong khi quyền công dân Việt Nam chỉ dành cho người có quốc tịch Việt Nam thì quyền con người có phạm vi chủ thể rộng hơn là công dân Việt Nam, công dân nước ngoài, người không có quốc tịch (bao gồm cả người nước ngoài và người Việt Nam). Quyền công dân Việt Nam được pháp luật Việt Nam điều chỉnh, trong khi đó quyền con người vừa được pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam điều chỉnh. Một trong các quy định về quyền con người thì Hiến pháp có quy định “
nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (khoản 3 Điều 26). Theo đó, mọi cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo hộ không phân biệt đối xử là nam hay nữ.
b) Luật bình đẳng giới năm 2006
Ngày 29/6/2006, Quốc hội khóa XI đã ban hành Luật bình đẳng giới số 73/2006/QH 11, có hiệu lực kể từ ngày 01-7-2007. Theo đó, bình đẳng giới là mối quan hệ không có sự phân biệt đối xử với phụ nữ, ở đó phụ nữ và nam giới có vị trí, vai trò, được đối xử và được thụ hưởng ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình. Nam và nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Với mục tiêu cơ bản: xóa bỏ phân biệt đối xử về giới; tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế- xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ; thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Trong đó, những hành vi bị nghiêm cấm: cản trở nam, nữ thực hiện bình đẳng giới; phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức; bạo lực trên cơ sở giới và các hành vi khác bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật. Do đó, người có hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới sẽ tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
c) Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Xuất phát từ những quy định nêu trên của Hiến pháp, Luật bình đẳng giới, đối tượng bị bạo lực cần được bảo vệ không chỉ là phụ nữ mà còn cả nam giới. Có thể nói, đây là một trong những quy định hoàn toàn mới và phù hợp, bất kể là người nào bị xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm đều được pháp luật bảo vệ. Trên cơ sở đó, Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung
“Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ” của Bộ luật hình sự năm 1999 thành
“Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới” cho thấy, qua thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm và sự ra đời của Luật bình đẳng giới đã thúc đẩy các nhà làm luật có một cái nhìn thấu đáo và toàn diện hơn về bình đẳng giới không chỉ là nâng cao quyền lợi cho nữ giới mà còn là đảm bảo sự cân bằng về quyền và nghĩa vụ giữa nam giới và nữ giới trong xã hội. Cụ thể, như sau:
“Điều 165. Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới
1. Người nào vì lý do giới mà thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao, y tế, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Bên cạnh quy định một điều luật cụ thể về xâm phạm quyền bình đẳng giới, Bộ luật Hình sự năm 2015 còn rất nhiều điều, nội dung quy định về tăng nặng trách nhiệm hình sự có liên quan đến vấn đề “giới” của nạn nhân.
Ví dụ: Điều 140 về tội hành hạ người khác “
1. Người nào đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 185 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm: a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;…….”.
Điều 143 về tội cưỡng dâm “
1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:….d)
Làm nạn nhân có thai….”.
d) Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã kế thừa và phát triển nhiều quy định tốt về giới và bình đẳng giới trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Trong đó, vấn đề bảo đảm cho người bị coi là “nạn nhân” của hôn nhân đổ vỡ khi có căn cứ về hành vi vi phạm của vợ chồng liên quan đến bạo lực gia đình, tình nghĩa vợ chồng... và làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án giải quyết cho ly hôn (Điều 56); xác định yếu tố lỗi của người vi phạm trong giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn để chia tài sản phù hợp (Điều 59); quy định về người thực hiện công việc nội trợ và các công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được xem như lao động có thu nhập (Điều 59)....Như vậy, Luật hôn nhân và gia đình cũng xác định “nạn nhân” trong quan hệ gia đình không phân biệt là vợ hay chồng, mà bất kỳ người nào bị vi phạm đều được Luật quy định bằng chế tài bảo vệ cụ thể.
Bên cạnh các quy định của một số đạo luật nêu trên, vấn đề bảo đảm công lý đối với nạn nhân bị bạo lực về khía cạnh giới còn được quy định cụ thể ở Luật phòng, chống bạo lực gia đình, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật người cao tuổi; Luật quốc tịch; Luật nuôi con nuôi...
Để cụ thể hóa các quy định nêu trên, ngày 02/10/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1696/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016 - 2020. Mục tiêu tổng quát của Chương trình là giảm khoảng cách giới và nâng cao vị thế của phụ nữ trong một số lĩnh vực, ngành, vùng, địa phương có bất bình đẳng giới hoặc có nguy cơ bất bình đẳng giới cao, góp phần thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020.
Mục tiêu cụ thể của Chương trình được xác định như sau: (i) 70% cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến sỹ, người trong lực lượng vũ trang và sinh viên, học sinh các cấp; 50% người dân ở các cụm dân cư được truyền thông nâng cao nhận thức về bình đẳng giới; (ii) 100% cán bộ làm công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ, cán bộ hoạch định chính sách các cấp, đội ngũ cộng tác viên về bình đẳng giới được tập huấn cập nhật kiến thức bình đẳng giới; (iii) phấn đấu 100% nữ đại biểu dân cử, nữ cán bộ quản lý, nữ lãnh đạo các cấp, nữ cán bộ trong diện quy hoạch (từ cấp phòng trở lên) được trang bị kiến thức về bình đẳng giới và kỹ năng quản lý, lãnh đạo; (iv) phấn đấu 100% người có nhu cầu hỗ trợ về bình đẳng giới được tiếp cận ít nhất một dịch vụ tư vấn, hỗ trợ bình đẳng giới.
3. Thực tiễn thi hành pháp luật và áp dụng pháp luật liên quan đến về bảo đảm công lý đối với nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới tại Tòa án nhân dân
Tại Việt Nam, số liệu thống kê từ cuộc điều tra quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ năm 2010 cho thấy: 34% phụ nữ đã từng kết hôn cho biết họ đã từng bị chồng mình bạo hành thể xác hoặc tình dục, 58% phụ nữ cho biết, đã từng chịu ít nhất một trong ba hình thức bạo lực thể chất, tinh thần và tình dục trong đời . Điều đáng lo ngại hiện nay là tình trạng xâm hại, bạo lực với trẻ em, đặc biệt là trẻ em gái vẫn diễn biến phức tạp và đang là vấn đề gây bức xúc toàn xã hội. Trung bình mỗi năm có khoảng 1.000 vụ xâm hại tình dục trẻ em gái. Trẻ em gái không chỉ là nạn nhân của bạo lực gia đình mà còn là đối tượng dễ bị buôn bán, lạm dụng tình dục và bạo lực ngoài môi trường gia đình.
[7] Chính vì vậy, việc bảo đảm công lý đối với nạn nhân trên cơ sở giới, nhất là phụ nữ và trẻ em gái là hết sức cần thiết.
Trong quá trình ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và xét xử, giải quyết các vụ án nói chung, đặc biệt các vụ việc về hình sự, hôn nhân và gia đình, lao động, các Toà án quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật tố tụng, pháp luật chuyên ngành có liên quan, bảo đảm giải quyết tốt các loại vụ việc đúng quy định của pháp luật mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ.
- Trong công tác xây dựng các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật của Tòa án nhân dân tối cao:
Thực hiện một trong những nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tối cao trong việc thống nhất xét xử và tổng kết thi hành pháp luật là xây dựng, ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn như Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số bộ, ngành có liên quan, Tòa án nhân dân tối cao đã thực hiện đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật bình đẳng giới trong việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới.
Quá trình soạn thảo, xây dựng các dự thảo văn bản hướng dẫn luôn bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới quy định tại Điều 6 của Luật bình đẳng giới, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính.
[8]
Mặt khác, Tòa án án nhân dân tối cao luôn bảo đảm sự tham gia của đại diện nam và nữ trong việc thành lập Tổ biên tập xây dựng dự thảo. Thực hiện việc rà soát, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan đến bình đẳng giới và các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới trong
phạm vi điều chỉnh của dự thảo văn bản hướng dẫn cần ban hành. Xây dựng Báo cáo đánh giá tác động các quy định của văn bản hướng dẫn đến toàn xã hội, đặc biệt trong đó có các quy định liên quan đến bình đẳng giới theo quy định tại Luật bình đẳng giới.
- Công tác xét xử, giải quyết các vụ việc liên quan đến bạo lực về khía cạnh giới:
Trong công tác xét xử, giải quyết các vụ việc có liên quan đến bạo lực, Tòa án luôn luôn chú trọng, tăng cường các biện pháp bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị can, bị cáo, đương sự không có sự phân biệt giữa các đối tượng là nam giới hay phụ nữ.
Tăng cường tập huấn chuyên sâu các kỹ năng về giải quyết các loại vụ án hình sự liên quan đến các tội về xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do dân chủ của công dân; các loại vụ việc về hôn nhân và gia đình; các loại tranh chấp lao động bảo đảm thống nhất áp dụng pháp luật trong xét xử; bảo đảm công bằng, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người không phân biệt giới tính. Tuy nhiên, đối với các đối tượng bị can, bị cáo, đương sự là phụ nữ Tòa án luôn xem xét, đánh giá cụ thể trong từng loại vụ việc, hoàn cảnh để bảo đảm tốt nhất quyền của phụ nữ nói riêng.
Trong công tác xét xử, Tòa án các cấp đã đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện tranh tụng tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ, không phân biệt giới tính khi xét xử; nâng cao chất lượng, xét xử đúng người, đúng tội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự và Bản án, Quyết định của Tòa án phải có tính thuyết phục, bảo đảm có hiệu lực pháp luật phải được toàn xã hội nghiêm chỉnh chấp hành.
Hàng năm, Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc kiểm tra việc áp dụng pháp luật trong công tác xét xử tại các Tòa án nhân dân, qua đó kiểm tra việc thực hiện bảo đảm công lý về trên cơ sở giới đối với nạn nhân bị bạo lực trong xét xử, bắt đầu từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa phải bảo đảm đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật, bảo đảm sự bình đẳng về giới giữa các nạn nhân bị bạo lực.
- Trong công tác thông tin, truyền thông: Bảo đảm công khai, minh bạch hoạt động của Tòa án, bao gồm bảo vệ công lý đối với nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới:
Tòa án nhân dân tối cao đã ra mắt Trang thông tin điện tử công bố bản án, quyết định của tòa án, tại địa chỉ
https://congbobanan.taaan.gov.vn. Với trang điện tử này, người dân, cơ quan, tổ chức có thể tìm kiếm, xem trực tiếp nội dung các bản án, quyết định đã công bố thuộc các lĩnh vực liên quan, các án lệ được áp dụng. Người dân cũng có thể trực tiếp cho ý kiến về các bản án, quyết định được công bố qua nhiều tiện ích, trong đó có mục "Ý kiến phản hồi đối với bản án, quyết định". Phương thức này tăng cường sự tiếp cận và giám sát đối với hoạt động xét xử, giải quyết của tòa của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong đó có việc xét xử các vụ án có liên quan đến nạn nhân liên quan đến khía cạnh giới.
Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân tối cao đã xây dựng và phát sóng Truyền hình Tòa án nhân dân, coi đây là một kênh thông tin quan trọng để tăng cường công tác tuyên truyền về hoạt động xét xử. Đồng thời, đã đổi mới thủ tục hành chính tư pháp, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động xét xử của Tòa án để đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ án liên quan đến bạo lực về giới, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn bảo đảm công lý về khía cạnh giới.
4. Một số kiến nghị
Trên cơ sở đánh giá các quy định của pháp luật và thực tiễn bảo đảm công lý đối với nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới tại Tòa án nhân dân, tác giả có một số kiến nghị để tăng cường công tác này trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, trong đó cần có định nghĩa cụ thể về bạo lực trên cơ sở giới cũng như những các biểu hiện của nó làm cơ sở để Tòa án nhân dân tăng cường bảo đảm công lý đối với nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới.
Để bảo đảm công lý đối với nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới thì khung pháp lý cho công tác này cần đầy đủ, đồng bộ và mang tính khả thi cao. Rà soát các văn bản pháp luật có liên quan đến bạo lực giới ở Việt Nam cho thấy quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là nghiêm cấm các hành vi bạo lực trên cơ sở giới. Theo đó, Chính phủ, các bộ, ngành đã và đang nỗ lực trong việc xây dựng hành lang pháp lý quy định, xử lý các hành vi là biểu hiện của bạo lực trên cơ sở giới, như bạo lực giới trong gia đình, mua bán phụ nữ và trẻ em, quấy rối tình dục… nhằm đảm bảo môi trường sống và làm việc lành mạnh cho phụ nữ và trẻ em gái. Tuy vậy, vẫn chưa có một định nghĩa cụ thể, rõ ràng về bạo lực trên cơ sở giới; việc quy định chi tiết về các biểu hiện cụ thể của bạo lực trên cơ sở giới để xác định rõ các hành vi vi phạm còn hạn chế.
Vì vậy, cần có định nghĩa rõ ràng về bạo lực trên cơ sở giới trong các văn bản chính sách và luật pháp. Trong thực tế có thể sử dụng định nghĩa về bạo lực trên cơ sở giới do Liên hiệp quốc đề xuất, theo đó, “bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực nhằm vào một người dựa trên cơ sở giới tính của người đó. Nó bao gồm các hành động gây ra những tổn hại về thể chất, tâm lý và tình dục, những đe doạ dẫn đến những hành động nói trên, sự ép buộc và những hình thức khác nhằm tước bỏ tự do của người đó. Bạo lực trên cơ sở giới có thể xảy ra ở phạm vi gia đình, cộng đồng, và trong các tổ chức. Cả nam giới và phụ nữ đều có thể là nạn nhân của bạo lực trên cơ sở giới, tuy nhiên, phụ nữ và trẻ em gái là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất và bị tác động nặng nề nhất do bạo lực trên cơ sở giới do nam giới gây ra”.
Thứ hai, triển khai rộng mô hình xét xử thân thiện trong Tòa gia đình và người chưa thành niên, góp phần bảo đảm công lý với nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 45 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, trong cơ cấu tổ chức TAND cấp tỉnh cần có Tòa gia đình và người chưa thành niên và ở Tòa án cấp huyện có thể có Tòa chuyên trách này. Tòa gia đình và trẻ vị thành niên được thành lập với mục tiêu giải quyết tốt các tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh từ gia đình. Bởi lẽ, những tranh chấp phát sinh từ gia đình được giải quyết tốt thì sẽ góp phần ổn định xã hội, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển bền vững. Khi các mối quan hệ gia đình được củng cố, được duy trì, phát triển thì góp phần phục vụ công tác giáo dục bảo vệ trẻ em cũng như xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
Tại Tòa gia đình và người chưa thành niên, phòng xét xử được tổ chức theo mô hình thân thiện, đây là một mô hình tòa hoàn toàn mới theo xu hướng cải cách tư pháp và bảo vệ triệt để quyền trẻ em theo Hiến pháp 2013. Điều đó sẽ có những tác động tâm lý tốt, giúp người chưa thành niên không cảm thấy hoảng sợ ngược lại có thể bình tĩnh, lắng nghe, nhận biết những lỗi lầm của mình. Qua đó, khi họ hiểu được hành vi họ gây ra hậu quả cho xã hội có lẽ tự thân họ sẽ có những chuyển biến, tự cải tạo, nhận thức sai lầm của mình sẽ tốt hơn là đưa ra phòng xử án người lớn với cách làm mang tính chất áp đặt.
Có thể thấy rằng, việc thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên nói chung và mô hình xét xử thân thiện là một trong những giải pháp rõ nét để bảo đảm công lý với nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới vì nạn nhân chủ yếu của bạo lực chủ yếu là phụ nữ và trẻ em gái như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, đến nay, Tòa gia đình và người chưa thành niên và mô hình xét xử thân thiện mới được áp dụng tại 3 Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và triển khai thí điểm tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp với sự hỗ trợ của UNICEF. Vì vậy, việc nhân rông mô hình này trên toàn quốc là rất cần thiết.
Thứ ba, bảo đảm công lý với nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới không chỉ là nhiệm vụ của Tòa án mà cần sự vào cuộc cả các cấp, các ngành và sự chung tay của toàn xã hội.
Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã quy định rõ, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Tuy nhiên, đối với bảo đảm công lý với nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới thì nhiệm vụ này không riêng của Tòa án mà của toàn xã hội. Điều này thể hiện rõ nét tại Quyết định số 1696/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016 – 2020. Theo đó, đối tượng thực hiện Chương trình là
“các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, gia đình và các tầng lớp nhân dân trên phạm vi toàn quốc”.
Để triển khai Quyết định trên, trong năm 2017, cần có các hoạt động thiết thực để hưởng ứng Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới với chủ đề
“Chung tay xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái” sẽ diễn ra từ ngày 15-11 đến 15-12 năm nay. Coi đây là hoạt động thiết thực, cùng với Tòa án nhân dân bảo đảm công lý với nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới, góp phần tiến tới xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái./.
ThS. Tạ Đình Tuyên
[3] Điều 10 Luật Bình đẳng giới năm 2006 quy định
“Bạo lực trên cơ sở giới” làm một trong những hành vi bị nghiêm cấm.
[4] Điều 69 của Hiến pháp năm 2013.
[5] Điều 96, Điều 112 của Hiến pháp năm 2013.
[6] Điều 102, Điều Điều 107 của Hiến pháp năm 2013.
[7] Ngân Anh,
Lần đầu tiên triển khai Tháng hành động vì bình đẳng giới, Báo Nhân dân điện tử, tại địa chỉ: <http://www.nhandan.com.vn/xahoi/item/31216502-lan-dau-tien-trien-khai-thang-hanh-dong-vi-binh-dang-gioi.html>.
[8] Khoản 1 Điều 8 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “
Trong tố tụng dân sự mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội.”
Khoản 1 Điều 17 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định:
“Trong tố tụng hành chính, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội.”