Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 7 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, trên cơ sở kế thừa, tiếp thu một số quy định phù hợp của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã sửa đổi, bổ sung một số quy định về chế định ly hôn, trong đó có quy định về căn cứ ly hôn. Sự thay đổi này góp phần hạn chế những bất cập, vướng mắc tồn tại thời gian qua trong quá trình áp dụng.
1. Quy định về căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Theo khoản 14 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:
“Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Chế định ly hôn quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có nhiều điểm mới so với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 như quyền yêu cầu giải quyết ly hôn, căn cứ ly hôn, quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con sau ly hôn, giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn…Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định căn cứ cho ly hôn tại một điều luật riêng - Điều 89. Căn cứ cho ly hôn, theo đó có 02 trường hợp được coi là căn cứ cho ly hôn: (1) Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn; (2) Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Đối với căn cứ (1) (Điều 89 khoản 1), tại mục 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP) hướng dẫn:
Thứ nhất, được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận của người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan tổ chức, nhắc nhở, hòa giải nhiều lần; Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan tổ chức, nhắc nhở, hòa giải nhiều lần; hoặc vợ chồng không chung thủy với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhờ, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình.
Thứ hai, để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như trên. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.
Thứ ba, mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.
Đối với căn cứ (2) (Điều 89 khoản 2), thực tiễn cho thấy có thể xảy ra hai trường hợp như sau:
Thứ nhất, người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Toà án tuyên bố người chồng hoặc người vợ của mình mất tích và yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn. Trong trường hợp này nếu Toà án tuyên bố người đó mất tích thì giải quyết cho ly hôn; nếu Toà án thấy chưa đủ điều kiện tuyên bố người đó mất tích thì bác các yêu cầu của người vợ hoặc người chồng.
Thứ hai, người vợ hoặc người chồng đã bị Toà án tuyên bố mất tích theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Sau khi bản án của Toà án tuyên bố người vợ hoặc người chồng mất tích đã có hiệu lực pháp luật thì người chồng hoặc người vợ của người đó có yêu cầu xin ly hôn với người đó. Trong trường hợp này Toà án giải quyết cho ly hôn.
Như vậy, nếu có một trong các căn cứ nêu trên thì Tòa án xem xét, giải quyết yêu cầu cho ly hôn; trong trường hợp ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng…hay vì lý do nào đó không được luật quy định thì sẽ không được Tòa án chấp nhận.
Trong khi đó, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 không quy định căn cứ cho ly hôn thành một điều luật riêng như Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 mà chuyển quy định về căn cứ ly hôn vào trong quy định về thuận tình ly hôn (Điều 55) và ly hôn theo yêu cầu của một bên (Điều 56). Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”. Như vậy, trong trường hợp hai vợ chồng có yêu cầu thuận tình ly hôn, sự tự nguyện của hai vợ chồng khi yêu cầu chấm dứt hôn nhân là một căn cứ quyết định việc chấm dứt hôn nhân, tức ly hôn. Ngoài ra, trong việc thuận tình ly hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện xin thuận tình ly hôn của vợ chồng, đòi hỏi hai vợ chồng còn phải có sự thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con, nếu vợ chồng không thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con thì Toà án mới quyết định giải quyết việc ly hôn.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định ly hôn theo yêu cầu của một bên là căn cứ ly hôn tại Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên là trường hợp chỉ có một trong hai vợ chồng, hoặc cha, mẹ, người thân thích của một trong hai bên yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Theo đó, khi ly hôn theo yêu cầu của một bên thì Tòa án cần dựa vào một trong ba căn cứ sau đây:
Một là, căn cứ ly hôn trong trường hợp vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Hai là, căn cứ ly hôn trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Ba là, căn cứ ly hôn đối với trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia (Là trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ)
Như vậy, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai người mới có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn như Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 bổ sung quyền yêu cầu giải quyết ly hôn của cha, mẹ, người thân thích khác cũng có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe; quy định này góp phần giải quyết những bất cập của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
2. Những điểm mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 so với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về căn cứ ly hôn
Thứ nhất, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 coi việc không thỏa thuận hoặc có thỏa thuận nhưng không đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con về chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trong trường hợp cả hai bên cùng có yêu cầu ly hôn là căn cứ ly hôn
Đây là một điểm mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 so với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Thuận tình ly hôn được hiểu là khi hai bên vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, thật sự tự nguyện ly hôn, đã thỏa thuận được với nhau về việc chia hoặc không chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con và sự thỏa thuận này trong từng trường hợp cụ thể bảo đảm quyền lợi chính đáng cho vợ và con, khi đó Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn. Tuy nhiên, nếu hai bên vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, thật sự tự nguyện ly hôn nhưng trong quá trình giải quyết lại không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con về phân chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc hoặc giáo dục con thì khi đó, đây là một căn cứ để Tòa án giải quyết việc ly hôn. Trong khi đó, theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì 02 căn cứ cho ly hôn quy định tại Điều 89 như đã đề cập tại mục 1 không có trường hợp này.
Thứ hai, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đưa ra nguyên nhân của hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được để cụ thể hóa căn cứ cho ly hôn "vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng"
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định rất rõ “bạo lực gia đình” hoặc "vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng" là căn cứ để giải quyết cho ly hôn nếu đó là nguyên nhân làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Đây là một điểm mới quan trọng của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 so với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Bởi qua tổng kết thực tiễn giải quyết các án kiện ly hôn của Toà án cho thấy, số vụ ly hôn có hành vi ngược đãi, đánh đập chiếm tỉ lệ cao nhất trong các nguyên nhân dẫn đến ly hôn ở nước ta, trong đó đa phần phụ nữ là nạn nhân của tình trạng này. Tình trạng bạo lực gia đình ngày càng gia tăng và thể hiện tính chất nghiêm trọng của nó, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau. Bên cạnh đó, đối với những vi phạm khác, những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng trong đời sống vợ chồng... là lý do để ly hôn thì luật cũng quy định rõ ràng phải có cơ sở nhận định chung rằng tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thì mới giải quyết cho ly hôn. Có thể nói, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã đưa yếu tố lỗi để xem xét cho ly hôn; việc đưa ra những nguyên nhân của hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được để cụ thể hóa căn cứ cho ly hôn
“vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng” trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho Tòa án khi giải quyết việc ly hôn theo yêu cầu của một bên. Đây là một quy định quan trọng nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân và tạo cơ sở pháp lý thống nhất trong việc giải quyết việc ly hôn trong cả nước.
Thứ ba, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 bổ sung căn cứ ly hôn trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo khoản 2 Điều 51 nếu Tòa án thấy có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia
Đây cũng là một điểm mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 so với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cha, mẹ, người thân thích khác cũng có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn và xác định cụ thể về lý do xin ly hôn, trong đó bạo lực gia đình là một lý do. Quy định này đã tháo gỡ vướng mắc trong trường hợp muốn xin ly hôn thay cho người thân bị mất năng lực hành vi mà không thực hiện được do trước đây chỉ quy định việc ly hôn phải do chính đương sự (vợ, chồng) yêu cầu, trong khi họ lại bị mất năng lực hành vi dân sự dẫn đến không có năng lực hành vi tố tụng dân sự để xin ly hôn.
Thứ tư, quy định về căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho Tòa án khi giải quyết yêu cầu ly hôn, thể hiện kỹ thuật lập pháp cao so hơn với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
Như trên đã phân tích, với việc chuyển căn cứ ly hôn từ một Điều luật riêng trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 vào trong quy định của Điều 55 về thuận tình ly hôn và Điều 56 ly hôn theo yêu cầu của một bên trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và việc đưa ra những nguyên nhân của hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được để cụ thể hóa căn cứ cho ly hôn “vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng” đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho Tòa án khi giải quyết việc ly hôn theo yêu cầu của một bên. Điều này tạo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật khi giải quyết việc ly hôn trên cả nước. Bên cạnh đó, so với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 sử dụng kỹ thuật lập pháp chặt chẽ hơn, cụ thể Luật năm 2000 quy định “Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn,
nếu xét thấy.... thì Tòa án quyết định cho ly hôn”, điều này cho thấy có ý chí chủ quan của Tòa án khi giải quyết việc ly hôn; trong khi đó Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định rất cụ thể: “Khi vợ hoặc chồng ...
Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ ….”.
3. Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định về căn cứ ly hôn theo pháp luật hiện hành
Thứ nhất, cần lượng hóa nội dung tiêu chí về căn cứ ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”. Đây là một quy định mới, mang tính khái quát cao. Tuy nhiên, quy định này dẫn đến bất cập trong việc đánh giá tình trạng trầm trọng của hôn nhân trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của vợ hoặc chồng bởi với sự đa dạng của cuộc sống, thì mỗi cặp vợ chồng, mỗi vụ án ly hôn thường có mâu thuẫn cũng như hoàn cảnh không giống nhau. Trong khi đó, không có căn cứ rõ ràng để xác định thế nào là
“làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”, thế nào là hành vi
“vi phạm nghiêm trọng” nên việc xem xét, đánh giá căn cứ trên là rất khó khăn, vướng mắc. Cần nghiên cứu, xem xét bổ sung hướng dẫn áp dụng căn cứ ly hôn khi vợ hoặc chồng có hành vi ngoại tình bởi đây là một trong những hành vi vi phạm nghĩa vụ chung thủy giữa vợ chồng, là hành vi trái với đạo đức xã hội. Hành vi ngoại tình của vợ hoặc chồng gây ra hậu quả nghiêm trọng; mâu thuẫn trầm trọng có thể là gây tổn hại đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của bên còn lại, làm cho gia đình tan vỡ. Điểm c khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”. Trước đây, theo Điều 2 Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định trường hợp ngoại tình và một bên bỏ nhà đi quá hai năm không có duyên cớ chính đáng là một trong những căn cứ để Tòa án cho ly hôn.
Thứ hai, cần cụ thể hóa quy định về hành vi bạo lực gia đình làm căn cứ cho ly hôn
Hiện nay, Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình 2014 chưa cụ thể hóa về hành vi bạo lực gia đình làm căn cứ cho ly hôn. Cần nghiên cứu, bổ sung hướng dẫn áp dụng căn cứ ly hôn khi vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia đình trong văn bản hướng dẫn chi tiết, theo hướng sau: “Trong trường hợp chồng hoặc vợ có hành vi bạo lực gia đình thì vợ hoặc chồng được Tòa án giải quyết cho ly hôn khi có căn cứ sau:
Đối với hành vi bạo lực vật chất: Vợ, chồng thường xuyên đánh đập, ngược đãi, hành hạ làm cho người bị ngược đãi, hành hạ luôn bị giày vò về mặt tình cảm, bị tổn thất về danh dự, đau khổ về tinh thần hoặc bị thương tích, tổn hại đến sức khỏe mà chưa đến mức xử lý về hình sự hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính.
Đối với bạo lực tinh thần: Vợ, chồng bị chửi bới, sỉ nhục, xâm phạm danh dự, nhân phẩm và uy tín. Hành vi bạo lực của vợ, chồng được lặp đi lặp lại nhiều lần, đã được chính quyền địa phương nhắc nhở hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc có văn bản của cơ quan điều tra có dấu hiệu tội phạm (tội ngược đãi vợ; tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; tội bức tử) nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Thứ ba, cần bổ sung quy định căn cứ ly hôn khi chồng hoặc vợ phạm tội và đang chấp hành án phạt tù
Kiến nghị này xuất phát từ những lý do sau: Học tập kinh nghiệm của nước ngoài trong việc quy định trường hợp vợ hoặc chồng ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp hành án phạt tù. Ví dụ, pháp luật Thái Lan quy định: “Vợ hoặc chồng đã bị Tòa án kết án có phán quyết cuối cùng và bị tù hơn một năm vì phạm tội mà không có bất cứ sự tham gia, đồng tình hoặc hay biết của người kia và sự chung sống như vợ chồng gây cho người kia phải chịu đựng thiệt hại hoặc quấy nhiễu quá đáng”. Hơn nữa trước đây, tại Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định: Một trong những căn cứ ly hôn là trường hợp một bên vợ hoặc chồng can án phạt giam. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho vợ chồng thực hiện quyền được ly hôn khi một bên vợ, chồng có đạo đức không tốt, vi phạm pháp luật; đồng thời nó cũng có ý nghĩa răn đe những người là vợ, chồng chuẩn bị phạm tội phải suy nghĩ, đắn đo khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của nó đối với chính mình. Khi một người đang chấp hành án phạt tù thì không thể chăm lo được về đời sống vật chất cũng như tinh thần cho gia đình; người phạm tội có thể ảnh hưởng xấu đến việc giáo dục con cái./.
T.A
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
- Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Website: http://vienkiemsatbrvt.gov.vn/portal/p/728