Một số vấn đề về kiểm soát quyền hành pháp trong phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay

29/08/2016
Ở nước ta, tham nhũng được Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam coi là “quốc nạn”, là một nguy cơ có thể gây mất ổn định chính trị xã hội, và cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm sức chiến đấu của Đảng, giảm năng lực quản lý của Nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ tập trung làm rõ nguy cơ tham nhũng từ sự “tha hóa” quyền hành pháp, từ đó nêu rõ vai trò (giải pháp) kiểm soát quyền hành pháp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay. Nhưng trước khi đi sâu phân tích nguy cơ tham nhũng từ sự “tha hóa” quyền hành pháp, tác giả cũng khái quát làm rõ nguy cơ của tham nhũng tiểm ẩn trong bộ máy nhà nước nói chung.
1. Tham nhũng – một nguy cơ luôn tiềm ẩn trong bộ máy nhà nước
Lẽ thường tình của lòng người thì ai cũng “tham”, vấn đề là có điều kiện để “tham” hay không và “tham” nhiều hay “tham” ít, “tham” cho riêng mình, “tham” cho tập thể, tổ chức của mình hay “tham cho cả xã hội”. Song, tham nhũng thì không phải ai cũng có thể thực hiện được mà chỉ những người có chức vụ, quyền hạn mới có thể tham nhũng. Nói cách khác, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để vụ lợi. Chẳng hạn, người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để tham ô, nhận hối lộ, cố ý gây khó khăn, phiền hà khi giải quyết công việc hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho Nhà nước, tập thể, cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Những người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam được Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 xác định gồm: Cán bộ, công chức, viên chức; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn – kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
Những người có chức vụ, quyền hạn nêu trên đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì mục đích vụ lợi. Trong một số trường hợp, chủ thể tham nhũng cũng có thể là cả một cơ quan nhà nước hay một bộ phận nhất định nào đó của cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ, quyền hạn. Như vậy, chỉ những chủ thể có chức vụ, quyền hạn mới có thể tham nhũng và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước là những người trong số đó. Họ là những người thay mặt nhân dân để thực hiện quyền lực nhà nước – một thứ quyền lực có vai trò tối cao trong xã hội, do vậy, họ càng có điều kiện tham nhũng hơn. Thực tiễn cho thấy, những người làm việc trong bộ máy nhà nước luôn có nguy cơ tham nhũng ở những mức độ khác nhau. Và hiển nhiên là chủ thể nào có chức vụ, quyền hạn càng cao, càng nhiều, càng quan trọng trong bộ máy cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước thì khả năng tham nhũng càng lớn, điều kiện tham nhũng cũng dễ hơn và cái mà họ vụ lợi được từ hành vi tham nhũng (lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích chính trị hoặc các lợi ích khác) cũng nhiều hơn, có giá trị hơn.
Hành vi tham nhũng thường được thực hiện dưới những hình thức như: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; giả mạo trong công tác vì vụ lợi; đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi; không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi…Những hành vi nêu trên thường gây ra những thiệt hại lớn cho Nhà nước và xã hội, ảnh hưởng không tốt đến hoạt động đúng đắn, bình thường của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân. Hành vi tham nhũng không những làm mất uy tín, nhân cách của chính bản thân cán bộ, công chức, viên chức, những người có chức vụ, quyền hạn mà còn làm ảnh hưởng tới uy tín, danh dự của các cơ quan nhà nước mà họ đang làm việc, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan, tổ chức của Nhà nước. Hiện tượng tham nhũng cũng cản trở, gây khó khăn cho quá trình sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt…của các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Tham nhũng luôn ảnh hưởng xấu đến quá trình hoạt động, sự phát triển của Nhà nước và xã hội. Như vậy, tham nhũng không chỉ là một tệ nạn mà còn là một nguy cơ có thể gây mất ổn định chính trị - xã hội, sự tồn vong của những thiết chế quyền lực trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế. Vì lẽ đó, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng cần  phải được tiến hành kiên quyết và thường xuyên trong bộ máy nhà nước cũng như trong toàn xã hội.
Ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước hết lòng tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Khi sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã là người đi đầu trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta (Người đã từng bác đơn xin giảm án và quyết định tử hình một cán bộ cao cấp trong quân đội vì tội tham nhũng), luôn nhắc nhở cán bộ, công chức nhà nước: Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Nên “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân…”. Người căn dặn: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.
Để đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước, Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều quy định pháp luật để chống tham nhũng, mà quan trọng hơn cả là các quy định trong  Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005. Nhiều cán bộ, công chức có hành vi tham nhũng đã bị xử lý nghiêm minh song nguy cơ và hiện tượng tham nhũng của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước ta vẫn diễn biến phức tạp. Bên cạnh rất nhiều cán bộ, công chức, viên chức của bộ máy nhà nước ta đã hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, thì cũng có không ít cán bộ, công chức, viên chức có những hành vi tham nhũng ở những mức độ khác nhau cần phải lên án và xử lý kiên quyết hơn.
2. Nguy cơ tham nhũng từ tha hóa quyền hành pháp
Trong nhà nước dân chủ, quyền lực nhà nước được phân tách thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. So với cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp hoạt động linh hoạt hơn, nó có thể thay đổi, điều chỉnh tùy theo điều kiện thực tế. Chính điều này, quyền hành pháp “vừa là đầu vào, vừa là đầu ra cho quyền lập pháp và quyền tư pháp. Tuy vậy, cơ quan hành pháp không đơn thuần chỉ là bộ phận được tổ chức ra để thực thi một cách thụ động các quyết định của cơ quan lập pháp, mà là nhánh quyền lực có ảnh hưởng rất lớn đến các nhánh quyền lực khác. Hoạt động hiệu quả của bộ máy hành pháp mới đem lại tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của bộ máy nhà nước, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; ngược lại sự trì trệ, yếu kém, lạm dụng quyền lực trong hoạt động của bộ máy hành pháp sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.
Theo nghĩa chung, tham nhũng là sự lợi dụng quyền lực và sử dụng tùy tiện quyền lực để mưu lợi cá nhân hay nói cách khác, tham nhũng là sự “tha hóa” quyền lực. Trong xã hội còn tồn tại giai cấp, nhu cầu đạt được lợi ích của mỗi người trong xã hội có sự khác nhau, đặc biệt nó còn biểu hiện ngày một quyết liệt, đa dạng hơn trong nền kinh tế thị trường. Khi nắm giữ được quyền lực, đặc biệt là quyền lực nhà nước, con người luôn mong muốn mở rộng quyền lực và sử dụng nó một cách triệt để nhằm biến nó trở thành công cụ hữu hiệu nhằm đạt được những lợi ích cụ thể trong xã hội. “Tham nhũng (…) căn bệnh chung của mọi xã hội có nhà nước, có nhiều nguyên nhân, trong đó có sự tùy tiện của con người nắm giữ quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, “trong mỗi chế độ nhà nước khác nhau, thì tính chất và mức độ tham nhũng cũng khác nhau, phụ thuộc vào bản chất giai cấp, phương thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, vào năng lực và đạo đức của đội ngũ công chức của nhà nước đó”. Bên cạnh đó, tính gián đoạn (do nhân dân không tự mình thực hiện trực tiếp mà ủy quyền cho các đại diện) và tính liên tục của quyền lực nhà nước (quyền lực tập thể ủy thác cho các cá nhân) tạo ý chí cá nhân cho những người lãnh đạo, mặc dù phải tuân thủ theo ý chí chung về nguyên tắc, nhưng trong thực tế hoạt động lại có thể trở nên áp đảo, hay thậm chí trở thành ý chí chung. Đây là nghịch lý đặt ra đòi hỏi quyền lực nhà nước phải được kiểm soát. Chính vì lý do đó, chủ thể nhận quyền lực của nhân dân luôn có xu hướng mở rộng quyền lực của mình nhằm thỏa mãn các lợi ích riêng. Những nhân viên nhà nước khi được Nhà nước giao quyền, họ thường sử dụng quyền lực đó một cách triệt để và luôn mong muốn mở rộng quyền này thêm nữa, vì những lợi ích mà họ đạt được từ việc sử dụng quyền lực nhà nước vượt ra ngoài thẩm quyền của họ. Vị trí của họ càng cao thì quyền lực càng lớn và cơ hội đạt được lợi ích càng nhiều. Đây chính là nguyên nhân của nạn tham nhũng trong bộ máy của Nhà nước. Để có thể đẩy lùi được vấn nạn này, yêu cầu kiềm chế, đối trọng quyền lực của những người thực hiện quyền lực nhà nước trong phạm vi nhất định là cần thiết, nhằm bảo đảm quyền lực của Nhà nước không bị “bóp méo” và quyền lực của nhân dân không bị vi phạm, đó chính là yêu cầu tất yếu của kiểm soát quyền lực nhà nước. Điều đó cho thấy, quyền lực nhà nước và quyền lực nhân dân luôn tỷ lệ nghịch với nhau, quyền lực nhà nước được mở rộng bao nhiêu thì quyền lực của nhân dân sẽ bị thu hẹp bấy nhiêu.
Trên thực tế, để bảo đảm đầy đủ thẩm quyền và năng lực thực thi công vụ, các cơ quan hành pháp được tập trung lớn nguồn lực của xã hội và là nơi được trao nhiều chức năng, nhiệm vụ từ giai cấp cầm quyền. Phạm vi hoạt động của quyền hành pháp rất rộng lớn nhằm đảm nhận những nhiệm vụ cụ thể của Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội như: Đánh thuế, thu chi ngân sách nhà nước, thực thi chính sách công và thực thi pháp luật. Chính vì lý do đó, những người sử dụng quyền hành pháp để thực thi công vụ thường dễ tiếm quyền, lộng quyền, lạm quyền hay nói cách khác bị quyền hành pháp “tha hóa” nếu không được kiểm soát hiệu quả, đây là nguyên nhân căn bản của tệ tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, hách dịch trong hoạt động của cơ quan hành pháp mà xã hội luôn phải đối mặt.
Trong bất cứ nhà nước nào, đặc biệt trong chế độ đại nghị, các nguy cơ “tha hóa” quyền lực nhà nước đều tập trung rõ nét nhất ở cơ quan hành pháp. Các vụ việc tham nhũng, sách nhiễu, cửa quyền, hách dịch… đều chủ yếu diễn ra ở khu vực hành pháp. Trong thực tế, nhằm bảo đảm chức năng quản lý nhà nước, thực hiện được các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, các cơ quan hành pháp luôn có xu hướng mở rộng quyền lực của mình so với các nhánh quyền lực còn lại và tập trung nguồn lực kinh tế - xã hội ngày một nhiều hơn. Ngoài ra, sự thiếu trách nhiệm giải trình, thiếu công khai, minh bạch trong hoạt động và thu chi ngân sách nhà nước trước nhân dân và các cơ quan nhà nước khác của các cơ quan hành pháp là mảnh đất màu mỡ của tham nhũng. Mức độ tham nhũng tỷ lệ thuận với mức độ độc quyền kết hợp với mức độ bưng bít thông tin và tỷ lệ nghịch với trách nhiệm giải trình.
Như vậy, nguy cơ “tha hóa” quyền lực của các cơ quan hành pháp là một thực tế hiện hữu, cần thiết phải có một cơ chế kiểm soát quyền hành pháp hiệu quả, một mặt, bảo đảm đầy đủ quyền lực cho cơ quan hành pháp hoạt động, mặt khác, kiềm chế chặt chẽ để quyền hành pháp không bị bóp méo, không trở thành công cụ cho quan chức nhà nước có thể lợi dụng để mưu lợi cá nhân, làm phương hại đến quyền lợi của nhân dân và sự tồn vong của xã hội.
3. Các giải pháp kiểm soát quyền hành pháp trong phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay
Kiểm soát quyền hành pháp là cơ chế chính trị - pháp lý được các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện bằng phương thức thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán, tài phán, phản biện xã hội, v.v... nhằm bảo đảm quyền hành pháp được thực hiện liên tục, đúng đắn và đầy đủ theo pháp luật, phát huy hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức thực hiện chính sách công, pháp luật và điều hành tốt mọi hoạt động kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân và Nhà nước.
Trên thực tế, những cá nhân được Nhà nước giao quyền thay mặt Nhà nước (nắm giữ quyền lực) thực thi công vụ luôn có xu hướng lạm quyền, lộng quyền, biến quyền lực công thành quyền lực tư. Những người này sử dụng quyền lực nhà nước để mưu lợi cá nhân, xâm hại đến lợi ích công dân, lợi ích cộng đồng và xã hội, nghiêm trọng hơn là vi phạm về chế độ dân chủ trong nhà nước và xã hội. Để duy trì và phát huy dân chủ trong nhà nước và trong xã hội, quyền lực nhà nước phải được kiểm soát, trong đó trọng tâm là kiểm soát quyền hành pháp vì “xét cho cùng, trung tâm hoạt động của Nhà nước mỗi quốc gia là hoạt động của hành pháp”. Kiểm soát quyền hành pháp nhằm ngăn chặn quyền hành pháp bị lạm quyền, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của nhân dân, phát huy dân chủ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành pháp. Thực tiễn ở nước ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng ta cũng chỉ rõ: “Quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi. Trong quá trình thực thi công vụ, do lạm dụng chức vụ, quyền hạn, nhiều cán bộ, công chức đã đưa ra những quyết định sai trái làm ảnh hưởng đến lợi ích của nhân dân. Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, “khoảng trên 10% số văn bản được kiểm tra do cơ quan chức năng ban hành đã bị phát hiện có dấu hiệu trái luật”. Hơn nữa, trong thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ một số cơ quan nhà nước đã hành động mang tính cường quyền, trái pháp luật, áp đặt nhân dân, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân như vụ cưỡng chế thu hồi đất ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng.
Vì vậy, để phát huy vai trò kiểm soát quyền hành pháp trong công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp về nguy cơ tham nhũng từ sự tha hóa quyền hành pháp và vai trò kiểm soát quyền hành pháp trong đấu tranh phòng chống tham nhũng.
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền hành pháp nhằm phát huy cơ chế này trong phòng chống tham nhũng ở nước ta hiện nay. Trong đó, Đảng và Nhà nước cần tập trung thực hiện tốt những nội dung sau:
Một là, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho các chủ thể thực hiện kiểm soát quyền hành pháp ở nước ta, như: Xây dựng cơ sở pháp lý để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện giám sát và phản biện xã hội; hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo đảm cho nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của đảng viên, cán bộ, công chức và các tổ chức, cơ quan Đảng, Nhà nước; hoàn thiện pháp luật về thực hành dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, tăng cường hoạt động giám sát của nhân dân; hoàn thiện pháp luật về bầu cử theo hướng: Thông tin về ứng cử viên được công khai rõ ràng hơn, các cuộc tiếp xúc cử tri được thực hiện rộng rãi hơn và cam kết về trách nhiệm của ứng cử viên với cử tri được coi trọng.
Hai là, hoàn thiện cơ sở pháp lý về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với cơ quan hành pháp; Hoàn thiện cơ sở pháp lý về kê khai tài sản của cán bộ, công chức; Tiến hành kiểm tra tài chính chặt chẽ đối với thu nhập và tài sản của những người có chức vụ, quyền hạn, đồng thời công bố công khai trong tổ chức, cơ quan mà cán bộ, công chức làm việc và tại địa bàn nơi cán bộ, công chức sinh sống. 
Ba là, hoàn thiện cơ sở pháp lý về quyền tiếp cận thông tin theo hướng công dân được tự do tiếp cận thông tin của Nhà nước (trừ những thông tin liên quan đến bí mật quốc gia, an ninh, quốc phòng), cho phép họ có cơ hội được thông báo về việc chính quyền đang làm gì cho họ, tại sao và bằng cách nào.
Bốn là, hoàn thiện năng lực kiểm soát quyền hành pháp của các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội như:
+ Tăng cường chất lượng giám sát của các cơ quan của Quốc hội theo hướng chuyên nghiệp, có trọng tâm, trọng điểm, chuyên sâu. Trên tinh thần đó, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội; tăng cường đại biểu chuyên trách; xây dựng các thiết chế giám sát độc lập của Quốc hội, trong đó nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nhà nước và nghiên cứu xây dựng thiết chế thanh tra Quốc hội.
+ Kiểm soát trong nội bộ cơ quan hành pháp cần tập trung vào đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát, thanh tra của chính quyền cấp trên với chính quyền cấp dưới và giữa các cơ quan chính quyền trong cùng cấp với nhau. Theo đó, Thanh tra Chính phủ và Thanh tra các bộ cần tập trung vào các nội dung chính, những vấn đề nhạy cảm, bức xúc trong xã hội hiện nay như quản lý và sử dụng đất đai, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản; tăng cường thanh tra đột xuất; trong quá trình thanh tra cần phối hợp chặt chẽ với thanh tra địa phương, ban thanh tra nhân dân, các đoàn thể nhân dân.
+ Cơ quan tư pháp kiểm soát đối với cơ quan hành pháp theo hướng tăng tính độc lập và thẩm quyền cho hệ thống Tòa án, chuyên nghiệp hóa hoạt động tư pháp; nâng cao chất lượng hoạt động của Tòa án hành chính. 
+ Hoàn thiện cơ chế Đảng Cộng sản kiểm soát đối với cơ quan hành pháp theo hướng xây dựng một cơ chế kiểm soát quyền lực ngay trong nội bộ Đảng. Cơ chế này không chỉ dừng lại ở việc thực hiện tự phê bình và phê bình, kiểm điểm định kỳ, mà phải được cụ thể hóa bằng các biện pháp có đủ sức răn đe.
+ Hoàn thiện hoạt động kiểm soát của các tổ chức chính trị - xã hội đối với cơ quan hành pháp theo hướng từng bước phi công chức hóa đội ngũ cán bộ làm việc trong các tổ chức chính trị - xã hội, hướng đến việc trả phụ cấp cho những người làm công tác chuyên trách theo thỏa thuận và theo năng lực hoạt động của họ; các tổ chức chính trị - xã hội phải vận động theo hướng độc lập trong việc chủ động xây dựng bộ máy và chương trình làm việc cho riêng mình.
+ Hoàn thiện hoạt động kiểm soát của nhân dân đối với cơ quan hành pháp theo hướng nâng cao ý thức chính trị và ý thức pháp luật của nhân dân, nâng cao dân trí và có biện pháp cụ thể để khuyến khích, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia đối thoại với đảng viên, cán bộ, công chức và các tổ chức, cơ quan Đảng, Nhà nước. Tiếp tục phát huy vai trò của cơ quan truyền thông trong việc thông tin, định hướng dư luận, đấu tranh chống tiêu cực, bảo vệ công lý, lẽ phải, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân.
Th.S Đoàn Thị Ngọc Hải - Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình
 

Tài liệu tham khảo
1. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005;
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr. 56,57;
3. Báo điện tử “Tiền phong" Chủ nhật, ngày 13.01.2008;
4. Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quôc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 135, 136;
5. Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.255 và tr. 256;
6. Ban tư tưởng văn hóa Trung ương, Tài liệu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr 186-187;
7. PGS.TS Nguyễn Minh Đoan “Tham nhũng và nguy cơ tham nhũng” NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội 2009;
8. GS.TS Nguyễn Đăng Dung: Hạn chế sự tùy tiện của cơ quan nhà nước, Nxb Tư pháp, H.2010, tr.163;
9. TS. Nguyễn Bá Chiến - ThS. Bùi Huy Tùng: Bàn về kiểm soát quyền lực nhà nước với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Tạp chí Quản lý nhà nước, 8 (199), 2012.