Trong các triều đại phong kiến Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay đã quan tâm xây dựng các quy định về phòng chống tham nhũng (viết tắt PCTN) để tạo cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh PCTN. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến pháp luật về PCTN từ một số văn bản pháp luật có tính chất đại diện, bao gồm Quốc triều Hình luật của triều đại nhà Lê và Luật PCTN của Singapore, để từ đó rút ra những giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong thời gian tới.
1. Quy định của pháp luật phòng, chống tham nhũng dưới triều đại nhà Lê
Trong 360 năm dài tồn tại, triều đại nhà Lê đã để lại cho hậu thế những thành tựu to lớn trên lĩnh vực pháp luật và điển chế. Trong số các thành tựu đó phải kể đến Quốc triều Hình luật, một Bộ luật quan trọng nhất và chính thống nhất của Triều Lê. Quốc triều Hình luật cũng chính là Bộ luật cổ xưa nhất mà chúng ta còn lưu giữ được đầy đủ cho đến ngày nay. Quốc triều Hình luật là một bộ luật hình chính thống và quan trọng nhất của triều đại nhà Lê nước ta (1482 -1788). Bộ luật này trong dân gian Việt Nam thường gọi là Luật Hồng Đức. Bộ Quốc Triều hình luật hiện còn lưu giữ khá đầy đủ, gồm 13 chương, 722 điều, chia làm 6 quyển với cơ cấu như sau:
- Quyển 1 gồm 02 chương: Chương danh lệ (49 điều); Chương vệ cấm (47 điều).
- Quyển 2 gồm 02 chương: Chương vi chế (144 điều); Chương quân chính (43 điều).
- Quyển 3 gồm 03 chương: Chương hộ hôn (58 điều); Chương điền sản (32 điều); Chương điền sản thêm (4 điều); Luật hương hỏa (4 điều); Sau thêm hiệu đính hương hỏa (9 điều); Chương thông gian (10 điều).
- Quyển 4 gồm 02 chương: Chương đạo tặc (54 điều); Chương đấu ẩu (50 điều).
- Quyển 5 gồm 02 chương: Chương trá nguy (38 điều); Chương tạp luật (92 điều).
- Quyển 6 gồm 02 chương: Chương bộ vong (13 điều); Chương đoán ngục (65 điều).
Đây là bộ luật tổng hợp bao gồm nhiều quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau: Hình sự, dân sự, tố tụng, hôn nhân và gia đình, hành chính,… Tất cả đều được trình bày dưới dạng những quy phạm pháp luật hình sự và đều áp dụng chế tài hình sự. Quốc triều hình luật là một thành tựu có giá trị đặc biệt trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Nó không chỉ là đỉnh cao so với những thành tựu pháp luật của các triều đại trước đó, mà còn đối với cả bộ luật được biên soạn vào đầu thế kỷ XIX: Hoàng Việt luật lệ do Gia Long ban hành năm 1812.
Quốc triều Hình luật quy định rõ các hành vi quan lại lợi dụng chức quyền để vụ lợi, tham nhũng như: nhận hối lộ, đòi hối lộ, sách nhiễu dân, gây khó dễ cho việc thu chi, giấu đất công, giấu đồ vật của công, chiếm ruộng đất công, sử dụng đất công quá hạn định, chiếm đoạt đất đai của lương dân, tự tiện đặt thêm quan chức, tự tiện thuyên chuyển quan dưới quyền, tự tiện sai khiến dân đinh, bắt dân phu làm việc riêng, lấy của dân vào việc riêng, dùng quân nhu vào việc riêng, tùy tiện thu thuế của dân, tự ý thu đồ vật của con nợ, đi công cán về tâu trình không đúng thực, chậm trễ, sao nhãng việc công, thi hành sắc lệnh không nghiêm… Ứng với mỗi hành vi đều có những hình thức xử lý nghiêm khắc, tùy thuộc vào tính chất, mức độ và nhân thân, sự cống hiến của quan chức.
Về nhận hối lộ, Quốc triều Hình luật quy định hình thức xử lý khá nghiêm, bên cạnh phải chịu hình phạt thì kẻ nhận hối lộ còn phải nộp gấp đôi số tiền đã nhận vào ngân sách, cụ thể, Điều 138 có quy định: “Quan ty làm ăn trái luật mà ăn hối lộ từ một quan đến 9 quan thì xử tội biếm hay bãi chức; từ 10 quan đến 19 quan thì xử tội đồ hay lưu, từ 20 quan trở lên thì xử tội chém. Những bậc công thần quý thần cùng những người có tài được dự vào hạng bát nghị mà ăn hối lộ từ một quan đến 9 quan thì xử phạt tiền 50 quan; từ 10 quan đến 19 quan thì phạt tiền từ 60 quan đến 100 quan; từ 20 quan trở lên thì xử tội đồ, những tiền ăn hối lộ xử phạt gấp đôi nộp vào kho”. Bên cạnh việc xử lý quan lại ăn hối lộ, Quốc triều Hình luật cũng quy định việc xử lý đối với người đưa hối lộ nhưng tùy thuộc vào hoàn cảnh và động cơ của họ, số tiền hối lộ phải nộp vào ngân sách. Trong một số trường hợp, những người biết tội phạm mà không báo cáo lại còn ăn hối lộ để bao che thì cũng bị xử lý. Điều 192 quy định: “Những người coi chợ và người lính thợ thấy trong chợ có người làm đồ vật giả dối hay phá hủy tiền đồng mà tha thứ không bắt trình quan, thì bị tội biếm hoặc phạt. Người ăn hối lộ dung túng việc đó thì tội cũng giống như chính phạm”. Trong một số trường hợp nếu nhận hối lộ mà làm không đúng quy định thì xử lý nặng hơn theo quy định tại Điều 120: “Viên quan được sai đi công tác, xem xét việc gì về tâu trình không đúng sự thực thì phải tội biếm hay đồ,…nếu ăn tiền hối lộ thì xử tội thêm 2 bậc”.
Đối với hành vi đòi hối lộ, Quốc triều Hình luật quy định xử lý trong một số trường hợp lợi dụng để đòi hối lộ và chế tài xử lý trong các trường hợp này là khá nghiêm khắc. Điều 626 có quy định: “Các quan đại thần, quan hành khiển cùng các quan coi ngục tụng, nếu kẻ tội nhân xét tình đáng thương, nên được vua ân tha cho mà lại tự nhận là ơn của mình, để đòi hối lộ, thì xử tội đồ, tội lưu hay tội chết”.
Đối với các trường hợp giấu đất đai, tài sản của công để chiếm đoạt hoặc có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi, theo Quốc triều Hình luật đều bị xử lý nghiêm, cụ thể:
Điều 594: “Giấu những đồ vật của công từ 1 quan trở lên thì xử tội biếm; từ 10 quan trở lên thì xử tội đồ; 20 quan trở lên thì xử tội lưu; 50 quan trở lên thì phải xử tử. Nếu giấu mà chưa chiếm hẳn làm của mình, thì được giảm tội hai bậc”.
Điều 184: “Những người coi việc đào sông, làm cảng và quan đắp ải mà giấu bớt dân phu, sách nhiễu tiền của thì bị tội biếm hoặc đồ, phải bồi thường gấp hai, trả lại cho dân”.
Điều 185: “Những người công sai đến các lộ, các huyện mà bắt ép phu khuân vác đưa đón và lấy lương thực, vật liệu quá nhiều thì bị tội xuy, đánh 50 roi, biếm một tư, phải bồi thường gấp đôi tang vật trả cho dân”.
Điều 186: “Những người coi chợ trong kinh thành sách nhiễu tiền lều chợ thì xử tội xuy đánh 50 roi, biếm một tư, lấy thuế chợ quá nặng biếm hai tư, mất chức coi chợ, bồi thường tiền gấp đôi trả cho dân”.
Điều 241:“Những quan tướng hiệu cai quản (...) ăn bớt của công (…) xét tội nhẹ thì bị biếm hay cách chức, tội nặng thì bị đồ hay lưu. Nếu khi chống giặc mà phạm thì không kể nặng nhẹ đều phải chém”.
Điều 280: “Những đồ quân nhu mà tướng lĩnh lấy dùng vào việc riêng thì xử tội biếm hay bãi chức; và bồi thường gấp đôi nộp vào quân”.
Điều 639: “Các quan ty tự tiện lấy của cải đồ vật của quân dân, dùng vào việc riêng tư, thì xử như tội ăn hối lộ, và phải bồi thường gấp đôi trả cho quân dân”.
Điều 372: “Quan dân không theo chế độ ruộng đất mà lạm chiếm phần mình thì xử tội biếm hay đồ”.
Điều 370: “Các nhà quyền quý chiếm đoạt nhà cửa ruộng đất ao đầm của lương dân, từ một mẫu trở lên, thì xử tội phạt; từ 5 mẫu trở lên, thì xử tội biếm. Quan tam phẩm trở xuống thì xử tội tăng thêm hai bậc và phải bồi thường như luật định”.
Điều 571: “Những người phu dân thợ thuyền đang làm việc mà quan chủ ty giám đương lại sai làm việc riêng, thì xử tội biếm hay bãi chức, và phải trả tiền công thuê nộp vào kho”.
Điều 632: “Các quan cai quản quan dân các hạt, vô cớ mà đi đến những làng xã trong hạt, hay là cho vợ cả, vợ lẽ, người nhà đi lại, mượn việc mua bán làm cớ, để quấy nhiễu quân dân, lấy của biếu xén, thì xử tội biếm hay bãi chức”.
Trường hợp đòi tiền lương, tiền công quá mức cũng bị xử lý nhằm hạn chế những hành vi tham lam tư lợi của quan chức và những người có liên quan trong xã hội. Điều 193 quy định: “Những người đòi tiền lương quá phận của mình, nếu là quan chức thì bị tội xuy đánh 50 roi, biếm một tư, và bãi chức, viên thuộc lại bị tội đồ làm tù quét dọn nơi đang làm việc, người tư giám bị tội đồ làm tù quét dọn trong trại lính, phải bồi thường tiền gấp đôi trả theo luật. Người không đáng được ăn lương mà lại đòi tiền thì bị xử tội thêm một bậc”.
Các biện pháp chế tài xử lý đối với các trường hợp bổ nhiệm, tuyển dụng, thuyên chuyển quan chức và người làm việc trong các cơ quan nhà nước không đúng quy định, Điều 97 quy định: “Quan lại đặt ra có số nhất định, nếu bổ dụng hay đặt ra quá hạn định, hay không nên đặt ra mà đặt ra (nghĩa là không tâu xin) thì thừa một viên phải phạt 60 trượng, biếm hai tư và bãi chức; thừa 2 viên trở lên thì thì xử tội đồ, người sau biết mà để yên thì xử tội nhẹ hơn người trước một bậc”. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định rõ đối với các trường hợp quan lại được bổ nhiệm nằm ngoài quy định cũng bị xử lý “Người xin vào chức đặt thừa ấy phải phạt 50 roi, biếm một tư… Những người ỷ thế nhà quyền quý để cầu cạnh xin quan tước thì xử tội biếm hay đồ; kẻ dưới quyền quan ty cũng bắt tội như thế” (Điều 139). Đối với người quyết định bổ nhiệm, luân chuyển một cách tùy tiện, không theo thứ bậc cũng bị xử lý “Các quan sảnh, quan viện, phê vào sổ thăng trật, thuyên chuyển các quan văn võ bậc dưới và các quan coi tăng tạo mà chẳng theo thứ bậc, tự tiện thay đổi thì bị tội đồ và bắt cải chính; nếu phạm nặng thì xử thêm tội” (Điều 152).
Trường hợp quan lại được giao nhiệm vụ mà làm chậm trễ hoặc dùng vào việc riêng cũng bị xử lý, nếu có yếu tố vụ lợi thì bị xử lý nặng hơn. Điều 150 quy định: “Những quan sảnh, quan viện duyệt sổ dân đinh, chức sắc, hay hạng sai dịch, mà tự tiện chậm trễ hay sai khiến vào những việc riêng, thì xử tội biếm hoặc đồ; việc nặng thì tội thêm một bậc. Những người thuộc lại kiểm điểm sổ ấy không công bằng, lại làm chậm để lấy tiền, thì phải khép vào tội biếm đồ hay lưu. Người cai quản tự tiện lấy dân đinh làm việc riêng trong nhà, thì xử tội biếm hay tội đồ”.
Với những quy định nêu trên cho thấy triều đại Nhà Lê đã quan tâm đến việc phòng ngừa và phát hiện, xử lý các hành vi lợi dụng chức quyền của các quan lại cũng như những người có liên quan để vụ lợi cá nhân. Trong đó, đã chú trọng việc xử lý đối với quan lại nhận của hối lộ, lợi dụng quyền quản lý tài sản, đất đai để chiếm dụng, chiếm đoạt ngân khố, tài sản công, đất đai, ruộng vườn. Đặc biệt, Quốc triều Hình luật đã có những quy định để xử lý nghiêm khắc đối với những trường hợp quan chức được giao thực hiện quyền quản lý, bổ nhiệm, tuyển dụng, sử dụng quan viên hay điều tra, xét xử các vụ án làm trái hay lợi dụng quyền lực được giao để vụ lợi cá nhân. Trong các quy định còn có nêu cả những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm và quan hệ, vị thế trong xã hội để lượng hình. Mặc dù, có những quy định mang tính trừng trị nhiều hơn là giáo dục đối với những kẻ lợi dụng quyền lực nhà nước để phục vụ lợi ích cá nhân, nhưng có thể nói các quy định trong Quốc triều Hình luật đã thiết lập nên kỷ cương, phép nước và đến nay vẫn có những giá trị để nghiên cứu, tham khảo trong quá trình xây dựng và HTPL nói chung và pháp luật về PCTN nói riêng.
2. Quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Singapore.
Chống tham nhũng cũng đi đôi với những nỗ lực nâng cao tiền lương và thu nhập của công chức cấp thấp và cấp cao trong các năm 1973, 1979, 1982, 1989 và 1994, rút ngắn khoảng cách giữa khu vực nhà nước và tư nhân. Nếu các ngành nghề tư nhân có thu nhập cao như: Kế toán, luật sư, ngân hàng, công ty chế biến và công ty đa quốc gia tăng lương là lương công chức cũng theo sát nút. Với chính sách lương bổng như vậy, lương công chức Singapore hiện vượt xa nhiều nước phương Tây. Ví dụ, lương cán bộ cao cấp nước này cao gấp 4 lần đồng nghiệp ở Mỹ. Với sự kiên trì và sáng tạo như vậy, năm 2010, Singapore được xếp hạng “ít tham nhũng nhất” trong số 178 quốc gia, theo Chỉ số Nhận thức tham nhũng (CPI) của Tổ chức Minh bạch quốc tế. Mặc dù năm 2014, Singapore tụt hạng (thua 6 nước), nhưng nước này vẫn chứng minh được khả năng xây dựng một chính quyền sạch bóng tham nhũng.
Việc tạo ra môi trường để quan chức không muốn, không thể và không dám tham nhũng là cốt lõi của thành công này. Trước khi ông Lý Quang Diệu làm thủ tướng, Singapore từng có Cơ quan Điều tra tham nhũng (CPIB) và Luật Chống tham nhũng nhưng vô hiệu. Tệ nạn này càng hoành hành dưới thời Nhật Bản chiếm đóng. Tình hình chỉ chuyển biến mạnh từ năm 1960 sau khi Đảng Nhân dân Hành động (PAP) của ông Lý Quang Diệu mở rộng quyền hạn của CPIB bằng Luật Phòng chống tham nhũng (POCA). Kể từ đó, Luật PCTN đã trải qua nhiều lần sửa đổi để tăng sức mạnh cho Cơ quan Điều tra tham nhũng. CPIB được đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Văn phòng Thủ tướng Chính phủ, có thể bắt giữ nghi phạm, tìm kiếm những người bị bắt, kiểm tra tài khoản ngân hàng và các tài sản khác của công chức bị điều tra. Hiệu quả của POCA được đảm bảo bởi sự ra đời của các luật sửa đổi, bổ sung Luật PCTN vào các năm 1963, 1966, 1981 và 1989 để đối phó với những vấn đề phát sinh.
Singapore coi việc CTN mang tính sống còn đối với sự phát triển đất nước nên đã tập trung cao nhất cho công tác PCTN với việc hoàn thiện hệ thống pháp lý, cải cách hành chính và đưa công nghệ thông tin hiện đại ứng dụng sâu rộng.
Để PCTN, Singapore ban hành Luật PCTN và Luật sung công tài sản, thành lập và tăng cường quyền lực tối đa cho Cơ quan Điều tra tham nhũng (CPIB) để kịp thời phát hiện, xử lý những hành vi hối lộ, tham nhũng. Chủ tịch CPIB do Tổng thống bổ nhiệm và bãi nhiệm. Tổng thống có thể bổ nhiệm Phó Chủ tịch CPIB và các trợ lý của Chủ tịch CPIB, các điều tra viên chuyên ngành của CPIB (Điều 3). CPIB nhận sự chỉ đạo trực tiếp từ thủ tướng và là cơ quan có thẩm quyền đầy đủ, có quyền hành cao nhất ở Singapore, được quyền tiến hành điều tra tham nhũng trên tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự, pháp lý…
Thành viên của CPIB có quyền chọn cơ chế hưởng lương theo công chức hoặc hưởng phần thưởng thu được từ Quỹ PCTN (INVEST Fund - Quỹ được trích nộp từ tiền tịch thu tài sản tham nhũng). Các thành viên của CPIB nếu phạm tội tham nhũng hay che giấu tội phạm tham nhũng sẽ bị mất toàn bộ lương hưu và tiền thưởng.
Thủ tục điều tra hành vi tham nhũng được quy định là một thủ tục đặc biệt. Theo quy định tại Điều 15 Luật PCTN: Chủ tịch, Điều tra viên chuyên ngành CPIB có quyền bắt, khám xét, thu giữ tang vật; Điều 17: Có quyền điều tra như cơ quan cảnh sát mà không cần có sự phê chuẩn của cơ quan công tố; Điều 18: Có thể ra quyết định, tiến hành điều tra đối với các thông tin trong tài khoản ngân hàng, cổ phần. Mức độ điều tra đối với người bị nghi vấn là rất kỹ, bao gồm tài sản của vợ, con; các suất học bổng, quà tặng mà vợ, con người đó được nhận; các công ty do vợ, con người đó tham gia góp vốn. Những người từ chối cung cấp thông tin, tẩu tán tài sản hay cản trở quá trình điều tra sẽ bị phạt đến 10.000 SGD. Người nào được CPIB yêu cầu đều phải cung cấp thông tin trung thực, nếu từ chối cung cấp thông tin hoặc đưa thông tin sai sự thật sẽ bị xử phạt, thậm chí bị phạt tù. Các thông tin mà CPIB hay tòa án cho rằng sẽ gây phương hại đến người tố cáo sẽ được giữ như thông tin mật.
Hình phạt đối với tội phạm tham nhũng được pháp luật Singapore quy định cụ thể và nghiêm khắc. Theo Điều 5 Luật CTN quy định: Người nào tự mình hay cùng với người khác thực hiện một số hành vi sau thì bị coi là phạm tội tham nhũng:
a) Đòi hối lộ, tham nhũng hay nhận hối lộ, đồng ý nhận hối lộ cho mình hay người khác;
b) Đưa hối lộ, hứa hẹn đưa hối lộ cho một người khác về một khoản tiêu cực phí (tiền tham nhũng) nhằm được ưu ái dành một khoản lợi nhuận xá nhân nào đó để: người đó không làm một việc về một vấn đề hay giải quyết một việc nào đó mà thực sự có động cơ mục đích rõ ràng; một người nào đó, một nhân viên, một công chức thuộc cơ quan công quyền làm hay không làm một việc có liên quan đến một vấn đề gì đó hay giải quyết một việc thực sự có mục đích, liên quan đến cơ quan công quyền đó, bị coi là phạm tội và sẽ phải chịu hình thức phạt tiền đến 100.000 đôla Singapore hoặc bị phạt tù không quá 5 năm, hoặc phải chịu cả hai hình phạt đó.
Bên cạnh đó, người phạm tội tham nhũng sẽ bị tịch thu sung công khoản vụ lợi và phải nộp phạt một khoản tiền tương đương với khoản vụ lợi bị tịch thu với tư cách là tiền phạt bổ sung. Ngoài ra, người phạm tội tham nhũng còn phải bồi thường cho cơ quan nhà nước bị thiệt hại theo thiệt hại thực tế phát sinh hoặc nộp một khoản tiền tương đương với khoản vụ lợi đã nhận.
Đối với những người liên quan, pháp luật Singapore quy định phải chịu trách nhiệm và bị xử lý, theo Điều 6: “Một nhân viên nhận hối lộ hay kiếm lời mang tính chất tham nhũng hay đồng ý chấp nhận, hoặc có ý định kiếm lời từ một người nào đó cho chính cá nhân mình hay cho người khác…; người nào đưa hối lộ hay đồng ý đưa hối lộ hay đưa một khoản tiền cho nhân viên nhà nước xúi giục làm việc gì đó hay vì một khoản tiền thưởng để làm hoặc không làm một việc..; người nào cố ý đưa hối lộ cho nhân viên hoặc nếu nhân viên cố ý nhận hối lộ nhằm mục đích cố ý làm sai trái, báo cáo sai sự thật với người có trách nhiệm về chứng từ, tài khoản… thì sẽ bị coi là phạm tội và sẽ bị kết tội và phải chịu hình phạt tiền không quá 100.000 đôla Singapore hoặc bị phạt tù không quá 5 năm, hoặc phải chịu cả hai hình phạt đó”. Điều 10 có quy định: “Người muốn giành được quyền ưu tiên đưa hối lộ cho người giành ưu tiên nhưng do có động cơ cá nhân mà hủy bỏ lời hứa hẹn này; người đòi hoặc nhận tiền hối lộ để can dự vào công vụ hay vì vụ lợi mà tự ý hủy bỏ hợp đồng thì sẽ bị coi là phạm tội và sẽ bị kết tội và phải chịu hình phạt tiền không quá 100.000 đôla Singapore hay phải chịu hình phạt tù với thời hạn không quá 7 năm, hoặc phải chịu cả hai hình phạt đó”. Luật PCTN khẳng định nhận tiền hối lộ là phạm tội, không cần xác định động cơ, mục đích. Các hành vi nhận vụ lợi, gợi ý đưa vụ lợi hay môi giới để nhận vụ lợi đều bị trừng phạt. Hành vi tham nhũng được coi là cấu thành khi cơ quan điều tra chứng minh được rằng công chức đã nhận vụ lợi, bất kể công chức đó đã thực hiện yêu cầu của người đưa vụ lợi hay chưa; hay có thẩm quyền để giúp đỡ người đưa vụ lợi hay không. Chỉ những người chủ động khai báo thông tin về hành vi tham nhũng mà CPIB chưa biết và không phải là người cầm đầu mới được hưởng khoan hồng.
Các hành vi hối lộ, tham nhũng đều bị trừng phạt ở bất cứ khu vực nào, cấp độ nào, dù tư nhân hay cơ quan chính phủ, dân thường hay quan chức cao cấp. Cá nhân nào phạm tội tham nhũng, ngoài việc bị mức án giam, còn phải thanh toán đầy đủ số tiền nhận hối lộ, nếu không sẽ được “cộng” vào hình thức phạt giam. Doanh nghiệp bị tố cáo hoặc có dấu hiệu hối lộ, sẽ bị đề nghị kết thúc dự án và đưa vào “danh sách đen”, không cho tham gia những cơ hội kinh doanh khác của Chính phủ. Điều 32 Luật PCTN quy định: “Cán bộ có thẩm quyền khi được đưa hối lộ có nghĩa vụ phải bắt ngay kẻ đưa hối lộ cho mình và dẫn giải kẻ đó đến đồn công an gần nhất, nếu không thực hiện việc đó thì cũng được coi là phạm tội”. Điều 35 quy định, những người từ chối việc khai báo đều bị xử lý. Những người cung cấp thông tin về tham nhũng thì được bảo vệ nghiêm ngặt (Điều 36). Ở Singapore không có tư duy về “vùng cấm” trong công tác điều tra tham nhũng và trong trường hợp Thủ tướng bị tố cáo tham nhũng, CPIB được quyền đến thẳng Tổng thống xin tạm quyền điều tra và xoá bỏ tất cả những trở ngại làm cản trở quá trình điều tra.
Đối với tài sản tham nhũng, theo Luật Sung công tài sản tham nhũng, Tòa án sẽ sung công những tài sản của bị cáo do tham nhũng mà có. Cụ thể, theo Điều 4 của Luật này: Một người nào đó có tài sản hoặc lợi ích về tài sản vượt quá khoản thu nhập công khai của mình, thì phần tài sản trội lên sẽ bị coi là tài sản có nguồn gốc tham nhũng nếu người đó không giải thích được nguồn gốc tài sản của mình là hợp pháp. Giá trị tài sản có nguồn gốc tham nhũng là tổng cộng giá trị của tài sản và các lợi ích có được từ tài sản (Điều 5). Giá trị tài sản thu hồi theo quyết định sung công là giá trị tài sản mà tòa án xác định có nguồn gốc tham nhũng. Trường hợp tài sản phát mại ít hơn số tài sản tòa án xác định có nguồn gốc tham nhũng thì số tài sản phải tịch thu theo quyết định sung công là số tài sản phát mại trên thực tế.
Như vậy thông qua Luật PCTN và Luật sung công tài sản của Singapore cho thấy, Singapore đã quan tâm và áp dụng nhiều biện pháp hữu hiệu để PCTN, trong đó, đã thành lập và tăng cường quyền lực tối đa cho CPIB (có quyền bắt giữ, điều tra, khám xét, yêu cầu cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng của bất kỳ ai bị những người bị tình nghi tham nhũng; mọi hành vi tham nhũng được coi là cấu thành khi cơ quan điều tra chứng minh được rằng công chức đã nhận vụ lợi và đều bị trừng phạt ở bất cứ khu vực nào, cấp độ nào). Người phạm tội tham nhũng bị tịch thu sung công khoản vụ lợi, bồi thường bị thiệt hại thực tế phát sinh hoặc nộp một khoản tiền tương đương với khoản vụ lợi đã nhận. Bên cạnh đó, Singapore trả lương xứng đáng cho công chức (không có độ chênh lệch nhiều với lương khu vực tư nhân), trả lương cao gắn với trách nhiệm lớn đối với các thành viên của CPIB; chú trọng thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của toàn xã hội trong PCTN.
3. Những giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
Nhà nước phong kiến Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới đều có những quan tâm trong công tác PCTN và đã ban hành các quy định cụ thể để thực hiện việc phòng ngừa và phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng. Tùy theo điều kiện cụ thể mà mỗi nhà nước, mỗi quốc gia đều có những biện pháp cụ thể khác nhau trong PCTN. Từ kết quả nghiên cứu pháp luật thời kỳ Lê sơ và pháp luật của Singapore nói trên chúng ta rút ra những giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật PCTN ở Việt Nam hiện nay, như sau:
Thứ nhất, pháp luật xác định rõ các hành vi tham nhũng xảy ra trên thực tế. Từ đó quy định các biện pháp xử lý nghiêm minh đối với các hành vi tham nhũng, nhất là các hành vi nhận hối lộ, lợi dụng chức quyền để vụ lợi, chiếm đoạt, chiếm dụng tài sản, đất đai, ngân sách; bổ nhiệm, bố trí cán bộ không đúng quy định để vụ lợi. Bên cạnh đó, pháp luật quy định những nguyên tắc trong xử lý tham nhũng. Những người phạm tội tham nhũng bên cạnh bị xử lý hình sự hoặc kỷ luật hành chính còn bị tịch thu sung công khoản vụ lợi, bồi thường bị thiệt hại (nếu có). Tại điểm b khoản 1 Điều 354, Điều 364 BLHS năm 2015 (có hiệu lực từ 01/7/2016) có quy định “Lợi ích phi vật chất” là tình tiết định khung của tội nhận hối lội; tội đưa hối lộ. Thực tế cho thấy, không ít trường hợp đối tượng giao dịch là quan hệ tình dục, dùng “tình dục” để đưa hối lộ, nhận hối lộ,… xu hướng người nhận hối lộ không cần đến tiền, kim loại quý, đá quý hay lợi ích vật chất khác ngày càng nhiều, họ chỉ cần cặp kê cùng những cô người mẫu, ca sĩ, diễn viên trẻ đẹp sẵn sàng “đổi tình lấy tiền” bằng những chuyến sex tour hoặc sẵn sàng bố trí việc làm cho cô ấy ở vị trí xứng đáng để đổi lấy điều mình mong muốn và đương nhiên ở Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Với trường hợp như vậy, vấn đề đặt ra pháp luật cần quy định sẽ thu hồi như thế nào, thu hồi cái gì liên quan đến tham nhũng? Cơ sở nào để xác định giá trị những cuộc giao dịch như thế để quy kết trách nhiệm hình sự theo điểm, khoản, điều luật nào của BLHS để truy tố, xét xử cho chính xác, cũng như thu hồi giá trị tài sản tương ứng, đảm bảo sự công bằng và nghiêm minh của pháp luật.
Thứ hai, phát huy vai trò của tổ chức, cá nhân nhất vai trò của báo chí trong PCTN, khuyến khích công dân tố cáo tham nhũng, có chính sách bảo vệ người dám đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, kiên quyết không để có “vùng cấm” trong đấu tranh chống tham nhũng. Hiện cơ chế, chính sách bảo vệ người tố cáo tham nhũng chưa đáp ứng được yêu cầu. Các quy định trong hệ thống pháp luật hiện hành bảo vệ người tố cáo, trong đó có bảo vệ người tố cáo về tham nhũng chưa thật sự đầy đủ và khả thi. Thực tế không ít trường hợp người dám đứng lên tố cáo hành vi tham nhũng tại cơ quan, địa phương mình kết quả họ được nhận là sự trả thù cá nhân bị đánh đập, có người bị sa thải, đuổi việc; có trường hợp bố mẹ đấu tranh chống tham nhũng nhưng con cái không được bổ nhiệm, bị thôi việc; có người tố cáo tham nhũng là nông dân thì bị phá hoại hoa màu, con cái bị đe dọa cả tính mạng, người thân lâm vào cảnh hoảng loạn tâm thần; có những người vợ của người đấu tranh chống tham nhũng chết vì không chịu nổi áp lực của sự đe dọa; có người còn bị đánh mìn vào nhà hoặc bị giết hại…Đây là một trong những nguyên nhân lớn khiến cho nhiều người không muốn tố cáo hoặc không dám tố cáo hành vi tham nhũng.
Các biện pháp cụ thể để bảo vệ người tố cáo tham nhũng, bao gồm: biện pháp hành chính, biện pháp kinh tế,…. Pháp luật cần quy định cụ thể một số biện pháp đặc biệt khẩn cấp tạm thời để áp dụng trong trường hợp cần thiết. Trong trường hợp nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền không bảo vệ được người đi tố cáo mà bản thân họ bị thiệt hại thì Nhà nước nên có chính sách đối với họ nhằm bồi thường thiệt hại, đồng thời xử lý nghiêm những cán bộ, công chức do yếu kém về năng lực, thiếu trách nhiệm để xảy ra hậu quả đó. Ngoài ra, phải có chế tài đối với hành vi trả thù, trù dập người tố cáo, trong đó cần lưu ý hoàn thiện các quy định pháp luật về xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật, xử lý hình sự đối với những người có hành vi này.
Thứ ba, coi trọng biện pháp phòng ngừa tham nhũng, nhất là việc công khai, minh bạch tài sản, thu nhập. Nếu có thông tin tố cáo về cá nhân nào đó giàu lên “bất thường” có thể do tham nhũng, mà họ không chứng minh được tính minh bạch, hợp pháp về tài sản của mình, thì tài sản đó do tham nhũng mà có. Thực tế cho thấy tình trạng làm giàu bất chính của không ít cán bộ, người có chức vụ quyền hạn trong bộ máy nhà nước thời gian qua là rất cực kỳ nghiêm trọng. Tuy nhiên, các chế tài xử lý hành vi làm giàu bất chính hiện nay trong hệ thống pháp luật nước ta không đủ phòng ngừa, răn đe cũng như chưa mang tính xử lý triệt để. Chẳng hạn, Luật Phòng, chống tham nhũng cũng chỉ quy định người kê khai tài sản không trung thực bị xử lý theo quy định của pháp luật và đối với người ứng cử vào các cơ quan dân cử thì bị xoá tên trong danh sách ứng cử, người được dự kiến bổ nhiệm thì không được bổ nhiệm. Tại Nghị định 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập cũng quy định người có nghĩa vụ kê khai có thể bị áp dụng các hình thức kỷ luật nếu kê khai sai như khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức…Xử lý hành vi làm giàu bất chính, cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách như hoàn thiện dữ liệu quản lý tài sản, thu nhập quốc gia; xây dựng luật riêng về minh bạch tài sản theo hướng quy định cụ thể về quản lý tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức và những đối tượng có liên quan khác. Do đó, khi chứng minh về tính hợp pháp của tài sản tăng lên, cần làm rõ hành vi làm giàu bất chính đã hoàn thành mà không phải chứng minh có hay không việc công chức đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật để có được tài sản tăng thêm bất hợp lý đó.
Thứ tư, quy định về việc thành lập cơ quan CTN chuyên trách có địa vị pháp lý tương đối độc lập và được giao những quyền hạn đặc thù, đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ phát hiện, xử lý tham nhũng một cách triệt để, nhanh hơn có thể không dây dưa kéo dài, chính xác và có hiệu quả. Thực tế cho thấy, thời gian qua nhiều vụ án tham nhũng lớn xảy ra nhiều năm nhưng cơ quan chức năng (thanh tra, kiểm toán,…) chậm hoặc không phát hiện được trong quá trình thanh tra, kiểm toán theo quy định của pháp luật, nhưng việc xử lý trách nhiệm đối với các thành viên cũng như trưởng đoàn thanh tra, kiểm tra chưa thật sự phù hợp và thiếu tính thuyết phục; khi bị phát hiện tham nhũng, công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan có thẩm quyền cũng chậm do vướng mắc nhiều khâu dẫn đến tiến độ xử lý chậm, gây bức xúc trong dư luận, ví dụ như vấn đề giám định tư pháp về thiệt hại trong nhiều vụ án lớn liên quan đến lĩnh vực tài chính, đất đai, ngân hàng,… như vụ Vũ Quốc Hào lợi dụng chức vụ, quyền hạn xảy ra tại Công ty cho thuê tài chính 2 thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Pháp triển nông thôn; về tài liệu chứng cứ do cơ quan tư pháp nước bạn cung cấp, có liên quan đến cán bộ, công chức trong vụ án tham nhũng thì có được coi là chứng cứ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nước ta không?… Hoặc có trường hợp đã bị Cơ quan An ninh điều tra – Bộ Công an khởi tố vụ án, nhưng cá nhân có liên quan sai phạm trong vụ án đó vẫn nắm giữ chức Tổng giám đốc – Đây là bất cập cần được khắc phục, trong khi chờ sửa đổi các quy định có liên quan đến vấn đề này, thiết nghĩ nên giao thẩm quyền này cho cơ quan chống tham nhũng chuyên trách. Mặt khác, với các vụ án tham nhũng lớn liên quan đến công tác giám định tư pháp, các cơ quan chức năng cần tập trung nhân lực, nguồn lực để thực hiện nhanh, chính xác để ban hành các kết luật giám định phục vụ cho công tác xét xử của Toà án, không để vì kết luận giám định chung chung, mập mờ, không rõ đúng sai, quan điểm khác nhau của các cơ quan tiến hành tố tụng làm chậm tiến độ xử lý các vụ án tham nhũng.
Thứ năm, quy định và thực hiện tốt chế độ đạo đức công vụ của công chức. Công chức thường xuyên phải rèn luyện thái độ làm việc, nhân phẩm, giá trị đạo đức, tính liêm khiết.Các cơ quan chức năng thường xuyên thực hiện chế độ kiểm tra, thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện chức trách công vụ của công chức, kiên quyết loại ra khỏi bộ máy Nhà nước cán bộ công chức có hành vi tham nhũng, cho dù sự tham nhũng đó chỉ đáng giá bằng giá trị của 01 vé xem phim. Một loại tham nhũng không kém nguy hại xuất phát từ lòng tham vặt và tư tưởng méo mó“đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”. Tham nhũng vặt diễn ra hằng ngày qua các giao dịch bình thường trong xã hội. Đôi khi nó chỉ là những món quà để đổi lấy sự châm chước, sự ưu tiên hay những khoản hối lộ “nho nhỏ” như: nhân viên các cơ quan công quyền các cấp gây khó dễ đối với người dân đến giao dịch để nhận tiền “bồi dưỡng”, “tiền trà nước”. Tham nhũng vặt mà biểu hiện của nó là “văn hóa phong bì” đã len vào những ngõ ngách của cuộc sống. Người ta lặng lẽ công nhận thứ văn hóa này. Thậm chí với nhiều người nó là biểu hiện của ứng xử khôn ngoan. Do đó tham nhũng vặt đang diễn ra từng ngày, từng giờ, không chỉ làm băng hoại đạo đức truyền thống mà nguy hiểm hơn là nó làm mất lòng tin của người dân với những giá trị xã hội, vào chính quyền.Tệ nạn này hủy hoại phẩm chất cán bộ, công chức và làm méo mó hình ảnh của một đất nước đang nỗ lực hội nhập với thế giới. Tham nhũng vặt là một yếu tố làm tăng “áp suất” của những bức xúc xã hội, do vậy, trên nhiều khía cạnh, nó nguy hại như tham nhũng lớn…
Đề cập đến “căn bệnh” này, khi nói chuyện với cán bộ ngành Tư pháp năm 1950, Bác Hồ đã nói: “Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không thể chỉ hạn chế hoạt động của mình trong khung Tòa án. Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân; học dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng. Thêm nữa phải luôn luôn cố gắng học tập lý luận, học tập đường lối chính sách của Chính phủ... tóm lại, các chú phải công bằng, liêm khiết, trong sạch, gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”. Nghiêm túc chấp hành những điều cán bộ, công chức ngành quy định không được làm và thực hiện triệt để mọi lúc mọi nơi đối với những quy định cán bộ, công chức ngành phải làm. Đạo đức nghề nghiệp là yếu tố bắt buộc phải có đối với cán bộ, công chức. Đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức mỗi ngành là yếu tố bắt buộc và càng có ý nghĩa hơn với các ngành thực hiện chức năng chống tham nhũng, bởi đặc thù nghề nghiệp của lĩnh vực công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử. Đạo đức nghề nghiệp luôn gắn bó với đạo đức cán bộ, công chức. Đồng thời khái niệm đạo đức nghề nghiệp không phải dừng ở những tiêu chí chung chung, mà cần thiết phải cụ thể hoá cho mỗi nghề nghiệp, mỗi lĩnh vực.
Thứ sáu, tinh gọn biên chế bộ máy đi đôi với đơn giản hóa thủ tục hành chính, trả lương xứng đáng cho công chức nhà nước. Không áp dụng chế độ phụ cấp công vụ, phụ cấp ngành đặc thù, không có sự ưu ái đặc biệt nào cho ngành nào, kể cả những người trực tiếp thực hiện công tác PCTN, bởi đã là cán bộ công chức nhà nước thì phải tận tâm tận lực phục vụ, thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao. Về chế độ phụ cấp lương hiện hành cho thấy, các khoản phụ cấp lương ở nước ta có xu hướng ngày càng mở rộng và dàn trải ra nhiều ngành, lĩnh vực (hiện có 16 loại phụ cấp lương khác nhau, trong đó có 3 loại được bổ sung về sau và đang có 21 ngành được hưởng phụ cấp ưu đãi theo ngành, nghề, phụ cấp trách nhiệm theo nghề và phụ cấp đặc thù). Thực tiễn này một mặt làm giảm ý nghĩa của chế độ phụ cấp, làm cho khoản chi có tính chất lương trong ngân sách nhà nước tăng nhanh, mặt khác, làm giảm vai trò của tiền lương. Do đó, cần rà soát lại các khoản phụ cấp, rút gọn tối đa các loại phụ cấp và dần dịch chuyển tất cả vào lương. Nhà nước xem xét hạn chế quy định các loại phụ cấp mới, đồng thời rà soát các mức phụ cấp đã quy định cho phù hợp với thực tế công việc, đặc thù trách nhiệm. Nghiên cứu gộp phụ cấp ưu đãi theo nghề và phụ cấp trách nhiệm theo nghề vào tiền lương.
Thứ bảy, phòng, chống tham nhũng, lãng phí phải bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, xã hội; phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh.; Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chú trọng tổng kết thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của quốc tế trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Ở Việt Nam, tệ nạn tham nhũng được đánh giá là còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, gây bức xúc trong xã hội, là thách thức lớn đối với Đảng và Nhà nước, là nguyên nhân dẫn tới sự thịnh, suy của chế độ. Để giữ vững ổn định chính trị; phát triển kinh tế, xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thiết nghĩ công tác đấu tranh chống tham nhũng cần tiến hành mạnh mẽ hơn nữa, quyết liệt hơn nữa, bằng việc tuyên truyền giáo dục về phòng, chống tham nhũng, lãng phí thường xuyên được quan tâm thực hiện, gắn với phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; tiến hành đồng bộ các giải pháp phòng ngừa tham nhũng, lãng phí trên cơ sở có sự phối hợp nhịp nhàng với các cơ quan chức năng, như Thanh tra, kiểm toán, Công an, Viện kiểm sát, Tòa án,…; Phát hiện kịp thời và xử lý dứt điểm tránh dây dưa kéo dài các vụ án tham nhũng, theo phương châm “ không bỏ sót lọt tội phạm, không làm oan sai cho người vô tội”; đề cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử và xã hội trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Th.S Lê Văn Sua
Tòa án quân sự Khu vực 1 – QK9