Thi hành pháp luật không phải là quá trình mang tính tự phát mà là hoạt động có ý thức của các chủ thể thực hiện các nghĩa vụ pháp lý được pháp luật đòi hỏi phải thực hiện. Do đó, thi hành pháp luật là hoạt động giữ vai trò quan trọng để bảo đảm các quy định của pháp luật được thực thi có hiệu quả trong thực tiễn. Pháp luật được ban hành nhằm mục đích duy trì và bảo đảm trật tự kỷ cương trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý xã hội, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật. Chính vì vậy, việc thi hành các quy định của pháp luật trên thực tiễn càng cần phải được bảo đảm để các quy định của pháp luật phát huy hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý hành nhà nước, quản lý xã hội. Nhưng để thực hiện được điều này, một trong những yếu tố vô cùng quan trọng đó là phải bảo đảm thực hiện có hiệu quả cơ chế theo dõi thi hành luật pháp.
Theo dõi thi hành pháp luật là một lĩnh vực pháp luật có phạm vi điều chỉnh rất rộng và phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Để công tác theo dõi thi hành pháp luật đạt được hiệu quả cao thì điều kiện tiên quyết là phải xây dựng được cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật giữa các cơ quan, tổ chức, cùng với đó là các điều kiện để bảo đảm cho cơ chế phối hợp được vận hành đồng bộ, kịp thời.
Thực tiễn cho thấy, việc phối hợp trong hoạt động theo dõi thi hành pháp luật có phạm vi rất rộng, từ công tác phối hợp giữa các cơ quan công quyền với nhau trong bộ máy nhà nước cho đến sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội (như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh...). Bên cạnh đó, còn có cơ chế phối hợp huy động mọi tổ chức, cá nhân, công dân tham gia vào công tác phối hợp theo dõi thi hành pháp luật.
Tuy nhiên, do điều kiện hoàn cảnh kinh tế - chính trị - xã hội, lĩnh vực theo dõi thi hành pháp luật mới được thực hiện trong những năm gần đây. Có thể nói, theo dõi tình hình thi hành pháp luật là một nhiệm vụ mới, có liên quan đến tổ chức và hoạt động của tất cả các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến địa phương, trong khi đó, các Bộ, ngành, địa phương chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức thực hiện. Cơ chế phối hợp giữa Bộ Tư pháp với các Bộ, ngành, UBND các cấp, vấn đề phối hợp theo dõi thi hành pháp luật với các cơ quan liên quan như Tòa án, Viện Kiểm sát, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... chưa được quy định cụ thể; các quy định về điều kiện bảo đảm cho việc phối hợp được đồng bộ, chặt chẽ, thường xuyên cũng chưa được pháp luật đề cập.
Trong phạm vi chuyên đề này, chúng tôi xin trình bày một số vấn đề về lý luận và thực tiễn của công tác phối hợp theo dõi thi hành pháp luật, trên cơ sở đó kiến nghị phương hướng hoàn thiện cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật trong thời gian tới.
I. Khái niệm, vai trò của cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật trong đời sống xã hội
1. Khái niệm cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội thì cơ chế là “cách thức, theo đó một quá trình được thực hiện”. Như vậy, theo định nghĩa trên thì cơ chế là muốn đạt kết quả của một quá trình, một công việc nào đó, người ta lập ra một hình thức tổ chức phù hợp, định ra phương thức thực hiện quá trình, công việc đó. Theo nghĩa đơn giản “phối hợp” có nghĩa là tổ chức hoạt động cho hai hoặc nhiều cơ quan, tổ chức. Xét từ khía cạnh quản lý nhà nước, phối hợp là một phương thức, một hình thức, một quy trình kết hợp hoạt động của các cơ quan, tổ chức lại với nhau để bảo đảm cho các cơ quan, tổ chức này thực hiện được đầy đủ, hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nhằm đạt được các lợi ích chung. Phối hợp tồn tại trong suốt quá trình quản lý, từ hoạch định chính sách, xây dựng thể chế, đến việc tổ chức thực thi cơ chế, chính sách, pháp luật, ở đâu có quản lý thì ở đó có nhu cầu phối hợp. Mục tiêu cuối cùng của phối hợp là tạo ra sự thống nhất, đồng thuận, bảo đảm chất lượng và hiệu quả trong quản lý. Nói khác đi, phối hợp là phương thức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể trong quản lý nhà nước.
Như vậy có thể nói rằng “cơ chế phối hợp” chính là phương thức tổ chức hoạt động của các cơ quan, tổ chức lại với nhau để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao nhằm thực hiện mục tiêu chung.
Trong lĩnh vực theo dõi thi hành pháp luật, chủ thể có thẩm quyền theo dõi việc thi hành pháp luật rất đa dạng, có thể là bất kỳ một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào. Chủ thể có thể là cơ quan nhà nước khi được quy định trong chức năng, nhiệm vụ của mình, có thể là các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp hoặc công dân. Theo quy định của Hiến pháp 1992, công dân có quyền “tham gia quản lý nhà nước và xã hội”, Nghị định số 59/2012/NĐ-CP đã cụ thể hóa quyền của các tổ chức, cá nhân, bằng quy định tại Điều 6: “Mọi tổ chức cá nhân có quyền tham gia hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật”. Thực tiễn triển khai công tác thi hành pháp luật trong những năm qua cho thấy, nội dung theo dõi thi hành pháp luật thường được tập trung xem xét, đánh giá vào các hoạt động sau:
“1. Tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật;
2. Tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật;
3. Tình hình tuân thủ pháp luật”.
(Điều 7 Nghị định số 59/2012/ND-CP)
Đương nhiên, để hoạt động theo dõi thi hành pháp luật đạt được hiệu quả, hướng tới mục tiêu chung là góp phần cho pháp luật được thực thi một cách nghiêm chỉnh thì cần phải có một cơ chế phối hợp đồng bộ, cụ thể giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Trên cơ đó, có thể xác định khái niệm về cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật như sau:
Cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật là các phương thức tổ chức hoạt động giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và mọi công dân để xem xét, đánh giá tình hình ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật, tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật và tình hình tuân thủ pháp luật nhằm bảo đảm cho việc thi hành pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh.
2. Vai trò của cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật trong đời sống xã hội
Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân với mục tiêu đề cao giá trị của pháp luật “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”, cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật giữ vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền.
Vai trò của cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật được thể hiện ở một số nội dung sau:
- Cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật tạo cơ sở cho việc thi hành Hiến pháp cũng như các văn bản quy phạm pháp luật trong thực tế cuộc sống;
- Cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật góp phần nâng cao ý thức pháp luật, đề cao ý nghĩa thượng tôn pháp luật, đề cao kỷ cương phép nước, qua đó góp phần phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm các quyền công dân.
- Cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật phát huy được các nguồn lực để tập trung và xử lý có hiệu quả những vấn đề khó khăn, phức tạp trong việc thi hành pháp luật mà đối với một người, một cơ quan, tổ chức không thể giải quyết được.
II. Thực trạng pháp luật hiện hành về cơ chế phối hợp trong công tác theo dõi thi hành pháp luật
1. Quy định của pháp luật về công tác theo dõi thi hành pháp luật
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, Chính phủ có nhiệm vụ bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân (Điều 112). Nhiệm vụ này đã được cụ thể hóa trong Luật Tổ chức Chính phủ, các Nghị định của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và tại các chương, điều, khoản có liên quan trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành, các văn bản về cải cách và kiểm soát thủ tục hành chính, về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Ngày 22/8/2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 93/2008/NĐ-CP và mới đây nhất là Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp. Theo đó, Bộ Tư pháp được giao thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác theo dõi thi hành pháp luật, với các nhiệm vụ sau:
“- Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc thực hiện công tác theo dõi thi hành pháp luật.
- Chủ trì, phối hợp với Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan, tổ chức có liên quan theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước và trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý liên ngành, có nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành;
- Theo dõi, đôn đốc các Bộ, cơ quan ngang Bộ soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
- Có ý kiến về việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ”.
Ngày 16/02/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 8 Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, Sở Tư pháp có chức năng tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh thực hiện việc theo dõi thi hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn cấp tỉnh; ngày 04/7/2011, Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2011/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của các tổ chức pháp chế đã giao nhiệm vụ cho các cơ quan tư pháp, tổ chức pháp chế trong công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật quy định trực tiếp về công tác thi hành pháp luật là Thông tư số 03/2010/TT-BTP hướng dẫn thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật và Nghị định số 59/2012/NĐ-CP về theo dõi thi hành pháp luật. Theo đó, Bộ Tư pháp có thẩm quyền theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước. Bộ, cơ quan ngang Bộ theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ. Cơ quan thuộc Chính phủ theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực được phân công. Tổ chức pháp chế ở Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tham mưu, giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ theo dõi tình hình thi hành pháp luật.Các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tham mưu, giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực được phân công.
Đối với hoạt động theo dõi thi hành pháp luật của địa phương, Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi quản lý ở địa phương mình. Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã chủ trì, phối hợp với cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, công chức chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi quản lý ở địa phương. Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, công chức chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực được phân công. Tổ chức pháp chế ở cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tham mưu, giúp người đứng đầu cơ quan chuyên môn theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
2. Quy định của pháp luật về cơ chế phối hợp trong công tác theo dõi thi hành pháp luật
Ngoài các quy định nằm rải rác trong các văn bản quy định tại các Nghị định của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và tại các chương, điều, khoản có liên quan trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành, pháp luật hiện hành đã tập trung đề cập đến cơ chế phối hợp trong công tác theo dõi thi hành pháp luật tại một số văn bản quy phạm pháp luật sau:
a)Thông tư số 03/2010/TT-BTP ngày 3/3/2010 đã bước đầu quy định về việc phối hợp theo dõi thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước, trong phạm vi ngành, lĩnh vực, trong phạm vi địa phương, cụ thể là:
- Phối hợp theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước:
Khoản 2 Điều 11 Thông tư quy định: “Các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và các cơ quan, tổ chức có liên quan phối hợp với Bộ Tư pháp theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi quản lý của Bộ, ngành và địa phương”.
- Phối hợp theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi ngành, lĩnh vực:
khoản 1 Điều 12 Thông tư quy định: “Các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, ngành chủ trì, phối hợp với tổ chức pháp chế giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong các lĩnh vực được phân công; thực hiện chế độ báo cáo về tình hình thi hành pháp luật theo quy định tại Chương IV Thông tư này, gửi tổ chức pháp chế để tổng hợp, báo cáo Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ”.
Khoản 2 Điều 12 Thông tư quy định: “Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp.
Các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ chủ trì, phối hợp với Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong các lĩnh vực được phân công; thực hiện chế độ báo cáo về tình hình thi hành pháp luật theo quy định tại Chương IV Thông tư này, gửi Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật để tổng hợp, báo cáo Bộ trưởng Bộ Tư pháp”.
- Phối hợp theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi địa phương:
Điều 13 Thông tư quy định: “Các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phối hợp với Sở Tư pháp theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực được phân công; thực hiện chế độ báo cáo về tình hình thi hành pháp luật theo quy định tại Chương IV Thông tư này, gửi Sở Tư pháp để tổng hợp, báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
- Phối hợp theo dõi tình hình thi hành pháp luật do tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân cung cấp”
Điều 14 Thông tư quy định: “Tổ chức pháp chế các Bộ, ngành, Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị, tổ chức có liên quan tham mưu, giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc tiếp nhận, tổng hợp, đánh giá và xử lý các thông tin về tình hình thi hành pháp luật do các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân cung cấp”.
b) Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 27/3/2012 về theo dõi thi hành pháp luật đã quy định về công tác phối hợp theo dõi thi hành pháp luật như sau:
Ngoài những nội dung về cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật mà Nghị định số 59/2012/NĐ-CP đã tiếp thu từ Thông tư số 03 như đã trình bày ở trên, tại Điều 18 Nghị định đã quy định về cơ chế phối hợp giữa cơ quan hành chính nhà nước với cơ quan khác như Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: “Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức khác có liên quan trong việc thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật”.
Bên cạnh đó, Điều 6 Nghị định đã nhấn mạnh vai trò theo dõi thi hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân như “1. Các tổ chức, cá nhân có quyền tham gia hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
2. Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện và khuyến khích sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
3. Căn cứ điều kiện cụ thể và yêu cầu của công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp huy động Hội luật gia Việt Nam, Liên đoàn luật sư Việt Nam và các Đoàn luật sư, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hội xã hội, nghề nghiệp, tổ chức nghiên cứu, đào tạo, chuyên gia, nhà khoa học có đủ điều kiện tham gia hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật theo cơ chế cộng tác viên”.
3. Một số nhận xét, đánh giá
Có thể nói rằng, hiện nay pháp luật về theo dõi thi hành pháp luật thiếu vắng những quy định cụ thể về phối hợp trong nội bộ các cơ quan hành chính nhà nước cũng như việc phối hợp theo dõi thi hành pháp luật giữa cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và công dân. Thực tế cho thấy ở tầm vĩ mô, cho đến nay chưa có một văn bản quy phạm pháp luật đề cập cụ thể công tác phối hợp theo dõi thi hành pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về công tác phối hợp theo dõi thi hành pháp luật hiện nay như Thông tư số 03/2010/TT-BTP hướng dẫn thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật hay Nghị định số 59/2012/NĐ-CP về theo dõi thi hành pháp luật mới chỉ quy định ở mức khái quát chung nhất về công tác theo dõi thi hành pháp luật của Chính phủ và các Bộ, ngành, UBND các cấp. Các quy định về phối hợp theo dõi thi hành pháp luật tại các văn bản nêu trên chỉ mang tính nguyên tắc, không cụ thể và thực sự là rất khó để các cơ quan liên quan phối hợp trong công tác theo dõi thi hành pháp luật.
Xét về tổng thể, đến nay vẫn chưa có một cơ chế hợp lý, đầy đủ, toàn diện để Chính phủ ở tầm vĩ mô, hệ thống và trong phạm vi toàn quốc, đánh giá tình hình phối hợp theo dõi thi hành pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước, của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và công dân nhằm khắc phục, xử lý những hạn chế, vướng mắc được phát hiện trong thực tiễn theo dõi thi hành pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách đầy đủ, nghiêm minh, thống nhất, góp phần nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
III. Hướng hoàn thiện cơ chế phối hợp trong công tác theo dõi thi hành pháp luật
Công cuộc đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội đòi hỏi chúng ta phải giải quyết nhiều vấn đề khác nhau, trong đó hoàn thiện cơ chế theo dõi thi hành pháp luật là một trong những vấn đề cơ bản, cấp thiết đang được đặt ra trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Pháp luật về công tác phối hợp theo dõi thi hành pháp luật đang trong quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện đã bước đầu phát huy tác dụng góp phần đảm bảo việc thi hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luât hiện hành về theo dõi thi hành pháp luật, chúng tôi xin kiến nghị một số phương hướng hoàn thiện cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật như sau:
1. Nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật theo dõi thi hành pháp luật
Như đã phân tích ở trên, hoạt động theo dõi thi hành pháp luật có vị trí vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Việc theo dõi thi hành pháp luật là công việc của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị từ cơ quan nhà nước cho đến các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp.
Xuất phát từ phạm vi chủ thể theo dõi rộng lớn như vậy, chúng tôi cho rằng không thể điều chỉnh lĩnh vực này bằng hiệu lực của một Nghị định, là văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành mà nó cần phải được Luật hóa bằng một văn bản do Quốc hội ban hành. Chỉ có một đạo luật do Quốc hội ban hành thì mới thể hiện được tính chính danh của hoạt động theo dõi thi hành pháp luật, đồng thời là cơ sở để thực hiện công tác phối hợp theo dõi thi hành pháp luật giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước (cơ quan hành pháp với cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp), giữa cơ quan trong bộ máy với các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp.
Phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật cần bổ sung nhiệm vụ theo dõi thi hành pháp luật của các tổ chức khác không thuộc bộ máy nhà nước như tổ chức cơ sở Đảng, Đoàn Thanh niên CSHCM, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên cũng như các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác. Bên cạnh đó dự thảo Luật cần quy định rõ về trách nhiệm phối hợp theo dõi thi hành pháp luật để có cơ sở pháp lý thực hiện công tác phối hợp theo dõi.
2. Đẩy mạnh hoạt động xây dựng và ban hành Quy chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật giữa các cơ quan, tổ chức
Trong giai đoạn trước mắt, khi chưa xây dựng và ban hành được Luật theo dõi thi hành pháp luật, các cơ quan tổ chức có nhiệm vụ theo dõi thi hành pháp luật thuộc phạm vi của mình cần đẩy mạnh hoạt động phối hợp với các cơ quan hữu quan để công tác theo dõi thi hành pháp luật đạt hiệu quả. Cụ thể là mỗi ngành, mỗi cấp cần chủ động xây dựng Quy chế phối hợp trong hoạt động theo dõi thi hành pháp luật.
Theo chúng tôi, Quy chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật cần tập trung làm rõ một số nội dung như:
- Xác định rõ phạm vi điều chỉnh của Quy chế phối hợp là gì, đối tượng điều chỉnh của Quy chế phối hợp là ai?
- Xác định rõ nội dung của Quy chế phối hợp là như thế nào?
Có thể làm rõ một số hoạt động phối hợp như:
+ Hoạt động trao đổi, thông báo tình hình trong lĩnh vực theo dõi thi hành pháp luật (cung cấp thông tin, trao đổi văn bản, tài liệu, thống kê, báo cáo..);
+ Hoạt động phối hợp tuyên truyền, phổ biến pháp luật;
+ Hoạt động phối hợp kiểm tra tình hình thi hành pháp luật;
+ Hoạt động phối hợp xử lý các vụ việc vi phạm pháp luật;
+ Hoạt động phối hợp trong công tác tham mưu cho cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp luật về lĩnh vực theo dõi thi hành pháp luật.
3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, biến giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức của nhân dân về công tác theo dõi thi hành pháp luật
Hiện nay, Bộ Tư pháp với vị trí vai trò là cơ quan theo dõi thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật tới mọi tầng lớp nhân dân nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân về pháp luật nói chung và hoạt động theo dõi thi hành pháp luật nói riêng.
Bên cạnh đó, cần xây dựng Quy chế Tiếp nhận và xử lý thông tin về tình hình thi hành pháp luật để người dân có thể dễ dàng cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó có cả các chế độ chính sách đãi ngộ đối với người cung cấp thông tin cũng như trách nhiệm của cơ quan tiếp nhận, giải quyết xử lý thông tin được tiếp nhận.
ThS. Phạm Ngọc Thắng, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia