Hôm nay – 14/3, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Phan Chí Hiếu đã chủ trì Phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 42). Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Kim Anh cùng dự.
Nghị quyết số 42 đã tạo ra hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng
Tại phiên thẩm định, đại diện Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Cơ quan chủ trì xây dựng Nghị quyết số 42 cho biết, qua gần 05 năm đi vào thực tiễn, các quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết số 42) đã tạo ra hành lang pháp lý cần thiết cho công tác xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (viết tắt là TCTD), Công ty TNHH MTV quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (viết tắt là VAMC) mang lại những chuyển biến tích cực trong công tác xử lý nợ xấu và góp phần không nhỏ vào kết quả công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020.
Tổng số nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 được xử lý từ 15/8/2017 đến 31/12/2021 đạt trung bình khoảng 5,67 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn khoảng 2,15 nghìn tỷ đồng/tháng so với kết quả xử lý nợ xấu trung bình tại thời điểm trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (trung bình từ năm 2012 – 2017, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) xử lý được khoảng 3,52 nghìn tỷ đồng/tháng).
Theo đại diện của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 42 để quy định về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của toàn hệ thống ngân hàng, nâng cao vai trò, năng lực của VAMC; tiếp tục duy trì khuôn khổ pháp lý xử lý nợ xấu, tạo cơ sở pháp lý và các cơ chế xử lý các vướng mắc, khó khăn pháp lý hiện hành liên quan đến xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm các khoản nợ của tổ chức tín dụng, tạo cơ chế xử lý đồng bộ, thống nhất, hiệu quả, khả thi các khoản nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm các khoản nợ của tổ chức tín dụng, để đảm bảo sự an toàn, phát triển bền vững cho toàn hệ thống ngân hàng nói riêng và tổng thể nền kinh tế nói chung, đảm bảo các tổ chức tín dụng tiếp tục phát huy tốt vai trò là kênh dẫn vốn chủ đạo, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.
Được biết, trước khi có Nghị quyết số 42, nợ xấu của toàn hệ thống các TCTD chủ yếu được xử lý bằng dự phòng rủi ro, các biện pháp xử lý nợ xấu thông qua xử lý TSBĐ và khách hàng trả nợ còn chưa cao. Tuy nhiên, kể từ khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực, xử lý nợ xấu nội bảng thông qua hình thức khách hàng trả nợ tăng cao, từ 15/8/2017 đến 31/12/2021, xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết số 42 thông qua hình thức khách hàng trả nợ là 148,0 nghìn tỷ đồng (chiếm 38,93% tổng nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đã xử lý), cao hơn nhiều so với tỷ trọng nợ xấu được xử lý do khách hàng tự trả nợ/tổng nợ xấu trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (tỷ trọng nợ xấu được xử lý do khách hàng trả trung bình năm từ 2012-2017 nợ/tổng nợ xấu là khoảng 22,8%).
Có thể nói, Nghị quyết số 42 đã tạo cơ chế xử lý hiệu quả, kiểm soát chặt chẽ các khoản nợ xấu và xử lý TSBĐ các khoản nợ xấu của TCTD. Trong thời gian gần 05 năm kể từ khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo toàn ngành Ngân hàng triển khai nghiêm túc, nỗ lực đẩy mạnh xử lý nợ xấu đúng mục tiêu, định hướng công tác xử lý nợ xấu và đạt được kết quả tích cực. Nghị quyết 42 thực sự đã mang lại những hiệu quả rõ rệt cho công tác xử lý nợ xấu của các TCTD, góp phần xử lý hiệu quả nợ xấu, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động động sản xuất, kinh doanh của nên kinh tế.
Kéo dài việc thực hiện Nghị quyết số 42 trước khi có Luật điều chỉnh về xử lý nợ xấu
Các ý kiến cơ bản nhất trí với việc gia hạn việc thực hiện Nghị quyết số 42 và cho rằng cần đánh giá thêm tác động của Nghị quyết 42 đối với các đối tượng điều chỉnh của Nghị quyết khi kéo dài việc thực hiện; đồng thời, nên có đánh giá toàn diện về mặt số liệu cũng như đánh giá về hiệu quả của Nghị quyết để xây dựng luật một cách sớm nhất. Ý kiến tại phiên thẩm định cũng cho rằng, cần làm rõ thêm giá trị của Nghị quyết số 42 trong xử lý nợ xấu. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện Nghị quyết, trên thực tế có những khó khăn, vướng mắc, nhưng tại thời điểm hiện nay chưa thể xây dựng luật, nên khi Nghị quyết số 42 hết hiệu lực thi hành thì toàn bộ cơ chế về xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 đang được thực hiện sẽ chấm dứt, điều này tạo ra một khoảng trống pháp luật. Do đó, cần phải kéo dài việc thực hiện Nghị quyết số 42 trước khi Luật được ban hành. Ngoài ra, Nghị quyết số 42 cũng đưa ra nhiều chính sách, tuy nhiên trong quá trình thực hiện, cần nhận định rõ rằng, tất cả các chính sách đó đã phù hợp với thực tiễn hay chưa và việc kéo dài việc thực hiện có duy trì thực hiện tất cả các chính sách hay không?...
Trên cơ sở các ý kiến tại phiên họp, Thứ trưởng Phan Chí Hiếu, Chủ tịch Hội thẩm định nhất trí với sự cần thiết kéo dài việc thực hiện Nghị quyết số 42, đồng thời đưa ra các đánh giá về: Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của Nghị quyết; Sự phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, khả thi; tính dự báo, điều kiện về nguồn lực, giải pháp để thực hiện; tính tương thích của chính sách với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên…
Thứ trưởng Phan Chí Hiếu đề nghị cơ quan chủ trì cần làm rõ hơn sự cần thiết của việc kéo dài Nghị quyết. Trong dự thảo, phạm vi điều chỉnh được giữ nguyên, tuy nhiên cũng cần phải xác định rõ 2 nội dung là kéo dài trong thời gian bao nhiêu lâu và kéo dài toàn bộ hay một phần chính sách trong Nghị quyết. Bên cạnh đó, Thứ trưởng cũng đề nghị tiếp tục rà soát bổ sung thêm một số chủ trương của Bộ Chính trị về vấn đề này, cũng như lưu ý một số vấn đề về liên quan đến quyền con người cũng như quyền công dân khi đưa vào Nghị quyết vì theo Hiến pháp những vấn đề này phải được điều chỉnh bằng luật...
Thực hiện An Như – Trung tâm Thông tin