Sáng 20/3, trong khuôn khổ hợp tác với Dự án JICA, Bộ Tư pháp đã tổ chức tọa đàm tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật về giao dịch bảo đảm (GDBĐ) và định hướng hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới. Thứ trưởng Nguyễn Khánh Ngọc đã chủ trì tọa đàm với sự tham dự của nhiều chuyên gia pháp lý Nhật Bản, Việt Nam và các đại biểu đại diện cho cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức tín dụng.
“Điều kiện cần và đủ” để thực thi quy định về biện pháp bảo đảm
Phát biểu khai mạc tọa đàm, Thứ trưởng Nguyễn Khánh Ngọc nhấn mạnh, qua 20 năm hình thành và phát triển, khuôn khổ pháp luật về GDBĐ cơ bản được định hình với Bộ luật Dân sự (BLDS), Nghị định 163/2006/NĐ-CP cùng rất nhiều văn bản liên quan và lĩnh vực pháp luật này cũng được Nhật Bản phối hợp chặt chẽ trong suốt 20 năm qua. Bên cạnh những kết quả đạt được, Thứ trưởng cho rằng, nhiều quy định về GDBĐ, nay là biện pháp bảo đảm theo BLDS năm 2015, gặp khó khăn trong thực tiễn triển khai thi hành, đòi hỏi phải được tháo gỡ kịp thời.
Căn cứ vào BLDS năm 2015, theo Thứ trưởng, những quy định về thủ tục đăng ký biện pháp bảo đảm đã có hướng dẫn tại Nghị định 102/2017/NĐ-CP nên tới đây cần chú trọng quan tâm thực hiện tốt pháp luật nội dung về đăng ký biện pháp bảo đảm. Mặc dù những quy định tiến bộ trong Nghị định 163 đã được “nâng lên” tại BLDS 2015 và Quốc hội cũng có Nghị quyết số 42/2017/QH14 nhưng việc xử lý các vấn đề về biện pháp bảo đảm hiện nay thì vẫn đang vô cùng vướng mắc. Vì vậy, “điều kiện cần và đủ để có thể đưa các quy định về biện pháp bảo đảm đi vào cuộc sống” là câu hỏi Thứ trưởng đặt ra cho các đại biểu tham dự tọa đàm.
|
|
Cung cấp thông tin để các đại biểu thảo luận theo gợi mở của Thứ trưởng Bộ Tư pháp, bà Nguyễn Quang Hương Trà (Phó Trưởng phòng, Cục Đăng ký quốc gia GDBĐ) cho biết, kết quả hơn 10 năm triển khai thực hiện Nghị định 163 đã góp phần hoàn thiện pháp luật về GDBĐ, qua đó góp phần đảm bảo an toàn pháp lý cho các bên tham gia GDBĐ và cá nhân, tổ chức khác, đồng thời tăng cường khả năng, cơ hội tiếp cận tín dụng để phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 bổ sung rất nhiều quy định mới có liên quan nên cần thiết xây dựng Nghị định thay thế Nghị định 163 nhằm đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Đơn cử, BLDS 2015 đã bổ sung một số quyền mới về tài sản như quyền hưởng dụng, quyền bề mặt mà hiện chưa có văn bản hướng dẫn cũng như cơ chế đăng ký dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Hay BLDS 2015 đưa ra khái niệm “hiệu lực đối kháng với người thứ ba”, các căn cứ làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm là đăng ký biện pháp bảo đảm/bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm thì cũng cần được hướng dẫn cụ thể để tạo thuận lợi cho việc hiểu và áp dụng pháp luật…
Đề xuất cho phép tổ chức tín dụng được quyền tự thu giữ tài sản bảo đảm
Chia sẻ một số định hướng xây dựng Nghị định thay thế Nghị định 163, bà Trà cho hay, một trong những điểm nghẽn là cơ chế xử lý tài sản bảo đảm được đề xuất hoàn thiện theo hướng tăng cường tính chủ động của bên nhận bảo đảm như thỏa thuận lựa chọn phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp; thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm; giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý… Đặc biệt, với một số loại hình tài sản mới được ghi nhận trong BLDS 2015, dự thảo Nghị định thay thế sẽ quy định nguyên tắc chung về việc mọi tài sản theo quy định tại Điều 105 của BLDS 2015 đều được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhằm giảm bớt e ngại của nhiều tổ chức tín dụng khi chưa dám nhận làm tài sản bảo đảm.
|
|
Đến từ Techcombank – một đại diện của bên nhận tài sản bảo đảm, Giám đốc tư vấn, hỗ trợ pháp lý PC02 Đinh Hồng Ngân thẳng thắn cho biết những khó khăn trong quá trình triển khai thi hành BLDS và thực tiễn vận hành GDBĐ. Trong đó, có vướng mắc lớn khi bên nhận bảo đảm không còn quyền tự thu giữ tài sản khi xử lý tài sản bảo đảm. Khi ấy, các khoản vay có tài sản bảo đảm đang do bên bảo đảm hoặc bên thứ ba nắm giữ sẽ rất khó để xử lý tài sản. Còn bên vay/bên bảo đảm nắm được các quy định này sẽ cố tình gây khó khăn cho ngân hàng bằng cách không bàn giao tài sản cho ngân hàng xử lý. Bà Ngân đề xuất trong dự thảo Nghị định thay thế sẽ hướng dẫn cơ chế đăng ký tài sản, quản lý tài sản, cơ chế giải quyết thông qua tố tụng và thi hành án để bên nhận tài sản bảo đảm có thể xử lý tài sản bảo đảm một cách nhanh chóng, giảm chi phí cho các bên khi thu hồi nợ, tránh kéo dài công tác xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng.
Bàn về các quy định xử lý tài sản bảo đảm, TS Nguyễn Bích Thảo (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) cũng đánh giá, nếu tiếp tục duy trì cơ chế xử lý tài sản bảo đảm hiện nay thì thời gian xử lý sẽ kéo dài, các thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm không được tôn trọng, thực hiện nghiêm túc. Theo bà Thảo, cần mở rộng phạm vi áp dụng cơ chế tự thu giữ tài sản bảo đảm không chỉ đối với các khoản nợ xấu như trong Nghị quyết 42 mà đối với tất cả các khoản vay có tài sản bảo đảm tại tổ chức tín dụng. “Việc cho phép tổ chức tín dụng được quyền tự thu giữ tài sản bảo đảm sẽ khắc phục bất cập trên, đồng thời cũng là giải pháp phù hợp với nguyên tắc trong pháp luật giao dịch bảo đảm hiện đại” – bà Thảo lý giải.
Hoàng Thư