Ngành Tư pháp xác định 06 định hướng công tác nhiệm kỳ 2021-2025 và 09 nhóm nhiệm vụ trọng tâm năm 2021

04/01/2021
Ngày 01/01/2021, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã phê duyệt Báo cáo số 01/BC-BTP về tổng kết công tác tư pháp năm 2020, nhiệm kỳ 2016-2020; định hướng nhiệm kỳ 2021-2025 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2021.
Nhiều kết quả toàn diện trên các lĩnh vực công tác tư pháp
Theo đánh giá công tác tư pháp nhiệm kỳ 2016-2020, trong điều kiện chung của đất nước còn nhiều khó khăn, tình hình kinh tế, chính trị thế giới diễn biến phức tạp, nhất là tác động của đại dịch Covid-19 từ đầu năm 2020, nhưng dưới sự Lãnh đạo của Đảng, sự điều hành sát sao, kịp thời, quyết liệt, sáng tạo của Chính phủ, với những nỗ lực, quyết tâm cao của toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, ngành Tư pháp đã tiến hành triển khai đồng bộ nhiều mặt công tác, bám sát phương châm hành động nhiệm kỳ và từng năm của Chính phủ, của chính quyền các địa phương. Công tác tư pháp tiếp tục có sự trưởng thành, gắn bó hơn với nhiệm vụ chung của đất nước, phối kết hợp tốt hơn, chủ động hơn với các cấp, các ngành, qua đó đóng góp thiết thực vào thành tựu chung của đất nước và từng địa phương về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, tăng cường vị thế đối ngoại của đất nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, người dân. Khái quát một số kết quả chính như sau:
- Hệ thống pháp luật của nước ta không ngừng hoàn thiện, cơ bản đầy đủ, toàn diện; kịp thời thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn đường lối, chủ trương của Đảng. Hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đều có văn bản ở tầm luật điều chỉnh. Chất lượng của hệ thống pháp luật có nhiều chuyển biến tích cực, cơ bản đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ; tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật từng bước được nâng lên. Quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật tiếp tục có sự đổi mới, vai trò tham gia của xã hội vào xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước được quy định cụ thể. Thể chế pháp luật trong lĩnh vực hoạt động của Ngành theo tinh thần cải cách đã được xây dựng, hoàn thiện khá đồng bộ, kịp thời.
- Công tác thi hành pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật đã được các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm thực hiện và đạt được những thành quả bước đầu. Công tác PBGDPL có nhiều đổi mới, nhất là ứng dụng công nghệ thông tin trong tuyên truyền, phổ biến và tổ chức các cuộc thi trực tuyến tìm hiểu pháp luật, qua đó đưa pháp luật đi vào cuộc sống nhanh hơn, hiệu quả hơn, tiết kiệm hơn. Vai trò của pháp luật và ý thức thượng tôn pháp luật trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao. Hoạt động báo chí, xuất bản của Ngành được thực hiện hiện quả, bám sát tôn chỉ, mục đích và nhiệm vụ chính trị của Bộ, Ngành và phục vụ tốt nhu cầu của bạn đọc.
- Việc triển khai các nhiệm vụ quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực hộ tịch, quốc tịch, chứng thực đạt nhiều kết quả ấn tượng, nổi bật là triển khai thực hiện Đề án “Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc”. Các lĩnh vực quản lý và cung cấp dịch vụ công về đăng ký giao dịch bảo đảm, LLTP, bồi thường nhà nước được thực hiện hiệu quả, đáp ứng kịp thời yêu cầu ngày càng tăng và tạo sự thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp. Quản lý nhà nước về XLVPHC từng bước đạt hiệu quả cao; các cơ quan tư pháp, pháp chế tham gia sâu về khía cạnh pháp lý đối với nhiều vụ việc phải xử lý ở các Bộ, ngành, địa phương.
- Nhiều hoạt động trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp tiếp tục được xã hội hóa mạnh mẽ, đạt kết quả tích cực. Tổ chức và hoạt động công chứng, giám định, luật sư... đã được đổi mới theo định hướng cải cách tư pháp, phục vụ có hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử và đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Đội ngũ luật sư có sự phát triển nhanh về số lượng; số vụ việc có luật sư tư vấn, bào chữa và TGPL ngày càng tăng; vai trò của luật sư từng bước được khẳng định. Việc đẩy mạnh phát triển nghề công chứng, đấu giá tài sản, thừa phát lại, trọng tài, hòa giải đã góp phần làm giảm công việc và chi phí của nhà nước, tăng cường tiếp cận công lý của người dân, bảo đảm an toàn pháp lý và thúc đẩy các giao dịch trong hoạt động kinh tế, dân sự.
- Hệ thống THADS được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất theo ngành dọc; có sự phối hợp song trùng trong lãnh đạo, chỉ đạo với cấp ủy, chính quyền địa phương. Các quy định về trình tự, thủ tục thi hành án được hoàn thiện theo các yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp nhằm góp phần tạo chuyển biến cơ bản trong công tác THADS, theo dõi THAHC; kết quả thi hành án tăng theo từng năm, đạt và vượt các chỉ tiêu được giao, qua đó bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, trật tự, an toàn xã hội, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, hoàn thành chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của từng địa phương.
- Tổ chức bộ máy của ngành Tư pháp tiếp tục được kiện toàn theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đội ngũ cán bộ ngành Tư pháp đã có sự lớn mạnh đáng ghi nhận về chất lượng, nhiều cán bộ được tin tưởng giao các trọng trách quan trọng ở Trung ương và địa phương. Nhiều chức danh tư pháp trong lĩnh vực hành chính, bổ trợ tư pháp đã được chuẩn hóa. Công tác thi tuyển, chế độ chính sách thu hút và sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng cao ngày càng được coi trọng.
- Công tác đào tạo nguồn nhân lực cho hệ thống tư pháp đạt được nhiều kết quả cao, vừa góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có kiến thức pháp luật cho xã hội, đồng thời đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Chủ trương xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành trường trọng điểm về đào tạo luật; xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn về đào tạo các chức danh tư pháp đạt nhiều kết quả tốt. Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý có nhiều dấu ấn lớn, đóng góp quan trọng vào việc cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam.
- Công tác pháp luật quốc tế ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong bảo đảm yêu cầu pháp lý phục vụ hội nhập sâu, rộng của đất nước; việc đại diện pháp lý cho Chính phủ giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, cấp các ý kiến pháp lý, hoạt động tương trợ tư pháp được thực hiện bài bản, kịp thời. Công tác hợp tác quốc tế về pháp luật tiếp tục được mở rộng với nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế và từng bước đi vào chiều sâu, phục vụ thiết thực hơn cho công cuộc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật và cải cách tư pháp, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Năm 2021 và nhiệm kỳ mới 2021-2025 là giai đoạn có ý nghĩa đặc biệt với nhiều thời cơ và vận hội mới. Năm 2021 là năm tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 và cũng là năm đầu tiên thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025. Tuy nhiên, dự báo trong giai đoạn này nước ta sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn; trong năm 2021 và những năm đầu của giai đoạn 2021 - 2025, đất nước ta phải tiếp tục tập trung thực hiện “mục tiêu kép”, vừa phòng chống dịch bệnh hiệu quả, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, vừa tận dụng tốt các cơ hội, nỗ lực phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới. Trong bối cảnh chung đó, bám sát các định hướng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp được thể hiện trong quá trình tham gia chuẩn bị văn kiện của Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng khóa XIII; thể hiện trong các Kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tổng kết và thực hiện các nghị quyết, chỉ thị liên quan đến các lĩnh vực công tác của Bộ, ngành Tư pháp; các chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Báo cáo số 01 của Bộ Tư pháp đã xác định 06 định hướng công tác tư pháp nhiệm kỳ 2021-2025 và 09 nhóm nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp năm 2021.
Sáu định hướng công tác nhiệm kỳ 2021-2025
- Một là, phát huy vai trò quan trọng của Bộ, ngành Tư pháp trong việc tham mưu xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật. Bảo đảm hệ thống pháp luật Việt Nam đầy đủ, thống nhất, đồng bộ, hiện đại, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận với chi phí tuân thủ thấp, có hiệu lực, hiệu quả cao, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân là trung tâm, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia.
Nghiên cứu xây dựng Luật về tổ chức thi hành pháp luật. Bảo đảm thượng tôn pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử phổ biến trong đời sống xã hội và trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức. Đẩy mạnh công tác PBGDPL, trong đó chú trọng cả những chính sách, quy định pháp luật ngay từ khi dự thảo; thực hiện hiệu quả chủ trương Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đi đôi với xã hội hóa hoạt động PBGDPL. Kịp thời ban hành các văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh nhằm khắc phục triệt để tình trạng nợ ban hành văn bản quy phạm pháp luật, sớm đưa các luật, pháp lệnh vào cuộc sống.
- Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về THADS, hành chính. Phấn đấu đạt hoặc vượt các chỉ tiêu THADS được giao; hàng năm giảm lượng án chuyển kỳ sau. Bảo đảm 100% bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án về vụ án hành chính được theo dõi thi hành theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
- Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và chất lượng các dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý. Hình thành được mạng lưới dịch vụ pháp lý rộng khắp, thuận tiện, tin cậy cho người dân, doanh nghiệp; phát huy vai trò tự quản của các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Đẩy mạnh hiện đại hóa các lĩnh vực công tác hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, xử lý vi phạm hành chính với trọng tâm là xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính. Thực hiện tốt Kế hoạch Chuyển đổi số ngành Tư pháp giai đoạn 2020-2025, định hướng đến năm 2030.
- Bốn là, chủ động phòng ngừa và tăng cường năng lực giải quyết tranh chấp, khiếu kiện trong hoạt động đầu tư quốc tế. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hợp tác với nước ngoài về pháp luật và tương trợ tư pháp. Song song với việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế về pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, cần tập trung rà soát, đánh giá tình hình thực hiện các thoả thuận hợp tác đã ký để có đề xuất, điều chỉnh phù hợp.
- Năm là, đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô đào tạo của Trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp để bổ sung nguồn nhân lực pháp luật, tư pháp có năng, lực, trình độ cao, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Củng có, kiện toàn, nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo của các Trường Cao đẳng luật. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học pháp lý, góp phần tích cực vào việc cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng, hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
- Sáu là, kiện toàn tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp, các tổ chức pháp chế và các cơ quan tư pháp địa phương theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Chú trọng luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong toàn Ngành.
Chín nhóm nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp năm 2021
1. Tập trung quán triệt và triển khai Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng khóa XIII, các Kết luận mới đây của Bộ Chính trị, Ban Bí thư liên quan đến các lĩnh vực công tác của Bộ, ngành Tư pháp. Tham gia nghiên cứu, xây dựng, trình Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII xem xét, ban hành và tập trung triển khai hiệu quả Nghị quyết về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
Thực hiện hiệu quả Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Chương trình xây dựng đề án, văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ năm 2021. Triển khai thi hành hiệu quả Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành VBQPPL. Nâng cao chất lượng thẩm định đề nghị xây dựng, dự án, dự thảo VBQPPL.
2. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, rà soát VBQPPL để kịp thời phát hiện, xử lý quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp với thực tiễn. Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát VBQPPL theo Quyết định số 236/QĐ-TTg ngày 12/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ; theo dõi, đôn đốc, chỉ đạo các bộ, cơ quan liên quan thực hiện công tác rà soát vướng mắc, bất cập của hệ thống pháp luật và việc xử lý kết quả rà soát VBQPPL đã được thực hiện trong năm 2020.
 Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, Bộ pháp điển để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận, tìm hiểu, áp dụng pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và công tác quản lý hệ thống pháp luật của cơ quan nhà nước.
3. Tiếp tục thực hiện hiệu quả Đề án “Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật” giai đoạn 2018-2022 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; nghiên cứu khả năng xây dựng Luật tổ chức thi hành pháp luật. Tăng cường công tác theo dõi thi hành pháp luật, gắn với công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật và kiểm soát thủ tục hành chính; tập trung vào các lĩnh vực thu hút nhiều sự quan tâm của dư luận, lĩnh vực được xác định là trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội năm 2021. Đôn đốc các Bộ, ngành xây dựng để kịp thời ban hành hoặc trình ban hành các văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh nhằm khắc phục triệt để tình trạng nợ ban hành văn bản quy phạm pháp luật, sớm đưa các luật, pháp lệnh vào cuộc sống.
Tổ chức triển khai đồng bộ, hiệu quả Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính; bảo đảm chất lượng, tiến độ xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này.
Tổ chức thực hiện có hiệu quả Quyết định số 1521/QĐ-TTg ngày 06/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Tập trung tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; tăng cường ứng dụng CNTT trong công tác này. Toàn Ngành phấn đấu tăng tỷ lệ hòa giải thành trong công tác hòa giải ở cơ sở.
4. Triển khai thực hiện hiệu quả Chỉ thị của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế sau khi được ban hành. Phấn đấu hoàn thành và vượt các chỉ tiêu THADS được Quốc hội giao năm 2021. Bảo đảm 100% bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án về vụ án hành chính được theo dõi thi hành theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Tập trung giải quyết các vụ việc trọng điểm, các vụ việc phức tạp, kéo dài, các vụ việc liên quan đến tín dụng, ngân hàng; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng trong kê biên, phong tỏa tài khoản, truy tìm tài sản bảo đảm cho công tác thi hành án, nhất là trong các vụ việc kinh tế, tham nhũng.
Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng cán bộ THADS. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, nhất là trụ sở làm việc, kho vật chứng cho các cơ quan THADS. Thực hiện tốt công tác phối hợp liên ngành, phối hợp với cấp uỷ, chính quyền địa phương trong THADS.
5. Nghiên cứu đề xuất xây dựng Luật Công chứng (sửa đổi) trên cơ sở kết quả tổng kết thi hành Luật Công chứng năm 2014; triển khai hiệu quả Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp; Nghị định số 08/2020/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại; Nghị quyết số 172/NQ-CP của Chính phủ về chính sách phát triển nghề công chứng và Chỉ thị số 40/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý nhà nước trong hoạt động đấu giá tài sản. Phối hợp tổ chức thành công Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ ba; chuẩn bị các điều kiện để tổ chức Đại hội đại biểu công chứng viên Việt Nam lần thứ 2.
Tiếp tục tổ chức thi hành hiệu quả Luật TGPL và các văn bản hướng dẫn, Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 – 2025; nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL và năng lực cho đội ngũ thực hiện TGPL để góp phần bảo đảm an sinh xã hội; tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông về hoạt động này.
6. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, bồi thường nhà nước, nuôi con nuôi, LLTP, đăng ký giao dịch bảo đảm. Đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ của Chương trình hành động quốc gia của Việt Nam về đăng ký và thống kê hộ tịch; ưu tiên tập trung nguồn lực khẩn trương hoàn thiện Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc, sớm đi vào vận hành đồng bộ với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Xây dựng đề xuất xin gia nhập Công ước 1961 về giảm tình trạng người không quốc tịch.
Chủ động phòng ngừa và tăng cường năng lực giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện trong hoạt động thương mại, đầu tư quốc tế. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hợp tác với nước ngoài về pháp luật và tương trợ tư pháp.
7. Tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy, hoạt động của các cơ quan tư pháp theo các nghị định mới của Chính phủ. Nghiên cứu, xây dựng và triển khai thực hiện Nghị định mới về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp. Rà soát, hoàn thiện quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức làm công tác pháp chế.
Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ về xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm về đào tạo pháp luật; xây dựng Học viện tư pháp Thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp. Hoàn thành việc xây dựng chương trình, giáo trình và tổ chức tuyển sinh, đào tạo tốt tại các Trường Cao đẳng luật mới được thành lập.
8. Thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng. Tập trung ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ, Ngành, trong đó chú trọng triển khai hiệu quả Kiến trúc Chính phủ điện tử của Bộ Tư pháp Phiên bản 2.0, Kế hoạch Chuyển đổi số ngành Tư pháp giai đoạn 2020-2025, định hướng đến năm 2030; xây dựng, nâng cấp, triển khai và duy trì các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu và phần mềm ứng dụng; nâng cấp các dịch vụ công trực tuyến do Bộ, ngành Tư pháp cung cấp lên mức độ 3, 4 và thực hiện có hiệu quả việc cung cấp các dịch vụ này trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, Cổng Dịch vụ công của Bộ, Cổng Dịch vụ công của các địa phương.
9. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống dịch Covid-19; tiếp tục chủ động tham mưu, phối hợp tham mưu cho các cấp, các ngành về khía cạnh pháp lý trong các quyết sách, chỉ đạo phòng, chống dịch, thực hiện “mục tiêu kép”./.
Phòng Tổng hợp – Kiểm soát TTHC, Văn phòng Bộ