Thông cáo báo chí văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 11 năm 2021

20/12/2021
Thực hiện khoản 2, khoản 3 Điều 12 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, Bộ Tư pháp ra Thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 11 năm 2021 như sau:
I. DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT ĐƯỢC BAN HÀNH
Trong tháng 11 năm 2021, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật như sau:
Các Nghị định của Chính phủ:
1. Nghị định số 95/2021/NQ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 03 tháng 9 năm 2014 về kinh doanh xăng dầu;
2. Nghị định số 96/2021/NĐ-CP ngày 02 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ về công tác bảo đảm chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang;
3. Nghị định số 97/2021/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 23/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ quy định về bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc;
4. Nghị định số 98/2021/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ về quản lý trang thiết bị y tế;
5. Nghị định số 99/2021/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán sử dụng vốn đầu tư công;
6. Nghị định số 100/2021/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê;
7. Nghị định số 101/2021/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ và Nghị định số 57/2020/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan và Nghị định số 125/2017/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP;
8. Nghị định số 102/2021/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hóa đơn; hải quan; kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số; quản lý, sử dụng tài sản công; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước; kế toán, kiểm toán độc lập;
9. Nghị định số 103/2021/NĐ-CP ngày 26 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ quy định mức thu lệ phí trước bạ đối với ô tô, rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ô tô và các loại xe tương tự ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước.
Các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ:
1. Quyết định số 33/2021/QĐ-TTg ngày 06 tháng 11 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07 tháng 7 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19;
2. Quyết định số 34/2021/QĐ-TTg ngày 08 tháng 11 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định về định danh và xác thực điện tử trên nền tảng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước công dân và Cơ sở dữ liệu quốc gia về xuất nhập cảnh;
3. Quyết định số 35/2021/QĐ-TTg ngày 24 tháng 11 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ một số văn bản quy pham pháp luật của Thủ tướng Chính phủ.
 II. HIỆU LỰC THI HÀNH, SỰ CẦN THIẾT, MỤC ĐÍCH BAN HÀNH VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1. Nghị định số 95/2021/NQ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 03 tháng 9 năm 2014 về kinh doanh xăng dầu
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 02 tháng 01 năm 2022.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Tại thời điểm xây dựng Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, cơ cấu về nguồn chủ yếu là xăng dầu nhập khẩu (khoảng từ 70% đến 80%); có giai đoạn sản lượng xăng trong nước được thực hiện theo cơ chế thu điều tiết với mức thu tương đương thuế nhập khẩu (từ ngày 3/9/2016 đến hết ngày 31/12/2016 áp dụng mức thu điều tiết là 10% đối với sản phẩm xăng). Như vậy, việc xây dựng công thức tính giá cơ sở xăng dầu được hình thành trên các yếu tố chi phí của nguồn nhập khẩu là phù hợp.
Bối cảnh kinh tế xã hội cũng có thay đổi so với năm năm trước, Chính phủ có những chủ trương và chỉ đạo nhằm tháo gỡ khó khăn, cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, đặc biệt là phát triển kinh tế tư nhân nên cần rà soát các điều kiện đầu tư kinh doanh không còn phù hợp như việc thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu không được cho thương nhân khác thuê kho, cầu cảng. Ngoài ra, trước nhu cầu về việc thuê và cho thuê cửa hàng xăng dầu để kinh doanh hiện nay nên cần rà soát bổ sung quyền được cho thuê cửa hàng xăng dầu để kinh doanh nhưng phải bảo đảm thương nhân đi thuê cửa hàng chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu. Nghị định số 83/2014/NĐ-CP quy định về việc sở hữu và đồng sở hữu cơ sở vật chất kinh doanh xăng dầu, tuy nhiên, khái niệm đồng sở hữu là khái niệm chưa được giải thích cụ thể, không rõ ràng.
Bên cạnh đó, Quỹ Bình ổn giá xăng dầu đã có một số bất cập nên phải rà soát và quy định lại cho phù hợp như việc xử lý Quỹ Bình ổn giá âm để bảo đảm hài hòa lợi ích của doanh nghiệp và người tiêu dùng thông qua việc thống nhất mức lãi suất hoạch toán lúc quỹ dương và vay bù đắp khi quỹ âm; quy định thêm trách nhiệm báo cáo, công khai minh bạch Quỹ… Bên cạnh đó, trong quá trình điều hành giá cũng cho thấy cần có sự linh hoạt hơn cho cơ quan điều hành giá; chu kỳ điều hành giá cần linh hoạt hơn để có thể thực hiện điều hành giá kịp thời với biến động của giá thế giới (thay vì duy trì cố định mức thời gian tối thiểu là 15 ngày trong trường hợp tăng giá và tối đa 15 ngày trong trường hợp giảm giá như hiện nay).
Thời gian vừa qua, nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành với nhiều quy định mới như Luật đầu tư, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật quy hoạch... do đó cần rà soát các quy định tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP để điều chỉnh cho phù hợp với các quy định mới (như việc không còn cơ chế phối hợp qua thông tư liên tịch nên cần quy định những vấn đề chung trong Nghị định, rà soát các văn bản dưới Nghị định để chỉ quy định thủ tục hành chính và điều kiện đầu tư tại Nghị định…).
c) Nội dung chủ yếu:
Nghị định bao gồm những nội dung chính sau:
- Về đối tượng áp dụng quản lý
+ Bổ sung đối tượng quản lý bao gồm cả xăng dầu được sản xuất từ các nguyên liệu khác dầu thô: Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, khái niệm về xăng dầu thuộc đối tượng quản lý chỉ bao gồm các sản phẩm từ quá trình lọc dầu thô, dùng làm nhiên liệu, không bao gồm các thương nhân sản xuất xăng dầu từ quá trình tái chế nguyên vật liệu khác (chất thải) vì vậy đối tượng này chưa được quản lý. Do đó, Nghị định sửa đổi, bổ sung đã đưa loại hình này vào đối tượng quản lý.
+ Nghị định quy định rõ về đối tượng không áp dụng để hạn chế phát sinh thủ tục hành chính khi xác định đối tượng không áp dụng theo đăng ký với Bộ Công Thương như quy định cũ, theo đó Nghị định không áp dụng đối với các thương nhân nhập khẩu, xuất khẩu, sản xuất và pha chế các loại xăng dầu chuyên dùng cho nhu cầu riêng của mình với số lượng không quá 200 lít/kg/tháng và không lưu thông trên thị trường.
+ Cho phép các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu trong nước nếu có hoạt động sản xuất có thể chuyển nhượng cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài nhưng phải được Thủ tướng Chính phủ cho phép: Trên thực tế hiện nay, sau quá trình cổ phần hóa, nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư để nâng cao năng lực tài chính đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, được sự cho phép của Chính phủ, nhiều doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu trong nước đã là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, do đó trong nội dung sửa đổi Nghị định số 83/2014/NĐ-CP đã rà soát và quy định cụ thể về vấn đề này theo hướng cho phép các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu trong nước nếu có hoạt động sản xuất được chuyển nhượng cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài nếu được Thủ tướng Chính phủ cho phép. Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đã góp phần cải thiện đáng kể công tác quản trị doanh nghiệp, giúp minh bạch hơn các báo cáo tài chính, qua đó nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, đặc biệt là giúp cho giá trị doanh nghiệp gia tăng thông qua giá trị cổ phiếu.
Có thể thấy, các nhà đầu tư nước ngoài cũng rất am hiểu và tuân thủ theo các quy định, pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu. Tuy nhiên, do chưa có quy định chính thức và cụ thể về tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài nên các doanh nghiệp trong nước cũng như các cơ quan quản lý nhà nước rất lúng túng trong quá trình thương thảo với họ trong việc đầu tư, phát hành tăng vốn và đặc biệt là việc thiếu đồng nhất về tỷ lệ nắm giữ cổ phần của đối tượng này khi doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán. Do đó, việc rà soát và bổ sung nội dung cho phép doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu được chuyển nhượng vốn cho nhà đầu tư nước ngoài là phù hợp với thực tế đã phát sinh và nhu cầu phát triển của ngành xăng dầu trong nước.
+ Đưa loại hình kinh doanh bằng thiết bị bán xăng dầu quy mô nhỏ vào quản lý:
 Để bảo đảm nguồn cung xăng dầu cho các địa bàn vùng sâu, vùng xa (ít được các doanh nghiệp đầu tư cây xăng do kém hiệu quả về kinh tế), Nghị định đã bổ sung quy định đối với nội dung này theo hướng quy định điều kiện và khu vực được phép hoạt động của các thiết bị bán xăng dầu quy mô nhỏ đã được kiểm định an toàn theo quy định từ các Bộ ngành liên quan. Theo đó, các thiết bị này chỉ được bán ở những địa bàn vùng sâu, vùng xa, ít được doanh nghiệp quan tâm đầu tư cây xăng (cụ thể theo hướng dẫn của Bộ Công Thương). Việc đưa ra quy định về cho phép sử dụng thiết bị bán xăng dầu quy mô nhỏ được dựa trên những khảo sát thực tế trên địa bàn vùng sâu, vùng xa của một số tỉnh miền núi. Tại đây, do không có các cửa hàng xăng dầu phục vụ người dân trong khoảng cách gần nên hiện tại người dân thường mua tích trữ vào các can nhựa và để trong nhà hoặc một số cửa hàng bán đồ tạp hóa ở mặt đường có sử dụng một số thiết bị tự chế để bán xăng dầu quy mô nhỏ (bình chứa khoảng 20 lít). Việc dự trữ hoặc dùng các thiết bị tự chế để bán xăng dầu nêu trên thực sự là một mối nguy lớn có thể dẫn đến cháy nổ, ảnh hưởng đến tính mạng của người dân. Do đó, trên cơ sở kinh nghiệm bán xăng dầu tại một số thành phố tại các nước lân cận như Thái Lan, Hàn Quốc, Bộ Công Thương đề xuất cho phép các thiết bị bán xăng dầu quy mô nhỏ được lắp đặt và bán xăng dầu tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa. Các điểm bán này sẽ thuộc hệ thống của doanh nghiệp và do các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đã được cấp giấy chứng nhận kinh doanh xăng dầu (đại lý, Tổng đại lý, Thương nhân phân phối, Thương nhân đầu mối) chịu trách nhiệm tổ chức kinh doanh nhằm bảo đảm kiểm soát được giá bán, chất lượng, nguồn gốc xuất xứ xăng dầu bán cho người tiêu dùng. Theo khảo sát của Bộ Công Thương, các thiết bị bán xăng dầu quy mô nhỏ có ưu điểm với mức đong tối thiểu là 0,5 lít cấp chính xác là 0,5% nên người tiêu dùng có thể mua xăng ở mức tối thiểu là 0,5 lít, phù hợp với nhu cầu của người dân tại các vùng khó khăn (hiện tại nếu người tiêu dùng mua xăng tại các cửa hàng xăng dầu thì phải mua tối thiểu 2 lít trở lên vì các thiết bị bán xăng dầu ở các cửa hàng đó chưa thể đong được xăng dầu bảo đảm độ chính xác ở mức dưới 2 lít).
Các quy định về điều kiện đối với loại hình kinh doanh thiết bị bán xăng dầu quy mô nhỏ được đưa ra trong Nghị định sửa đổi, bổ sung sẽ là những yêu cầu hết sức căn bản nhằm bảo đảm an toàn phòng cháy chữa cháy và đo lường. Việc bổ sung đối tượng quản lý và điều kiện cụ thể cho loại hình thiết bị bán xăng dầu quy mô nhỏ sẽ hỗ trợ các đơn vị kinh doanh xăng dầu trong việc có cơ sở pháp lý để mở rộng địa bàn kinh doanh xăng dầu tại vùng sâu, vùng xa, bảo đảm nguồn cung xăng dầu phục vụ người tiêu dùng, đồng thời bảo đảm sự quản lý của nhà nước đối với các đối tượng này.
+ Đổi tên thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu thành thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu: Hiện nay, quy mô sản xuất xăng dầu trong nước đã chiếm từ 70-75% tổng nguồn cung cho thị trường trong nước và các thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu hiện chủ yếu mua từ nguồn sản xuất trong nước. Vì vậy, Nghị định sửa đổi, bổ sung đã quy định thay đổi tên gọi của các doanh nghiệp đầu mối này cho phù hợp với điều kiện thực tế. Theo đó, đổi tên thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu thành thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu. Như vậy, thương nhân đầu mối sẽ bao gồm 02 loại: thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu và thương nhân đầu mối sản xuất xăng dầu.
+ Quy định lại về quyền và nghĩa vụ của thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu cho phù hợp với thực trạng cơ cấu nguồn xăng dầu hiện hành: Với thực trạng cơ cấu nguồn xăng dầu trong nước đã có sự thay đổi với nguồn cung trong nước chiếm trên 70%, do lượng mua trong nước là chính nên bỏ quy định về trường hợp thu hồi giấy phép khi thương nhân không kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu trong thời gian 01 quý trở lên (quy định tại khoản 6, Điều 8, Nghị định số 83/2014/NĐ-CP) thay vào đó quy định về việc thu hồi giấy xác nhận trong trường hợp không kinh doanh trong 01 quý trở lên hoặc không thực hiện đủ tổng nguồn tối thiểu trong 02 năm. Bỏ quy định về việc giao hạn mức nhập khẩu tối thiểu, thay vào đó quy định về giao tổng nguồn xăng dầu tối thiểu để bảo đảm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, bảo đảm an ninh năng lượng.
- Về điều kiện kinh doanh
Qua rà soát và ý kiến kiến nghị của một số địa phương, doanh nghiệp và Hiệp hội Xăng dầu có một số nội dung gây khó khăn cho doanh nghiệp, không phù hợp với điều kiện thực tế, Nghị định đã có những sửa đổi, cụ thể như sau:
+ Sửa đổi điều kiện về đơn vị cho thuê kho, cầu cảng: bỏ quy định về việc thương nhân đầu mối không được cho thuê kho, phương tiện vận tải (quy định tại Khoản 18 Điều 9 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP) nhằm tránh lãng phí nguồn lực xã hội khi các doanh nghiệp đầu mối đã đầu tư hệ thống kho tương đối lớn theo quy hoạch được phê duyệt hoặc phương tiện vận tải đã đầu tư nhưng việc sử dụng có tính thời vụ lại không thể cho thuê. Việc cho phép thương nhân đầu mối cho thuê dịch vụ, phương tiện vận tải sẽ khuyến khích các doanh nghiệp này đầu tư cơ sở vật chất để kinh doanh, đồng thời tránh tình trạng các doanh nghiệp phải thành lập thêm pháp nhân mới để “lách” quy định, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước.
+ Sửa quy định về sở hữu, đồng sở hữu, thuê cửa hàng xăng dầu: quy định về đồng sở hữu đã gây khó khăn cho cơ quan quản lý và doanh nghiệp trong việc xác định như thế nào là đồng sở hữu trong quá trình quản lý và đáp ứng quy định điều kiện kinh doanh. Do đó, Nghị định đã bỏ khái niệm đồng sở hữu, thay vào đó quy định chung về khái niệm sở hữu các cơ sở vật chất kinh doanh xăng dầu cho phù hợp với pháp luật hiện hành về các loại hình sở hữu. Theo đó, Nghị định đã quy định về sở hữu bao gồm sở hữu riêng và sở hữu chung theo phần (phù hợp với Luật Dân sự) với tỷ lệ sở hữu chung theo phần tối thiểu là 35% giá trị cơ sở vật chất. Quy định tỷ lệ sở hữu chung tối thiểu 35% để vừa bảo đảm năng lực của doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh xăng dầu, đồng thời bảo đảm quyền quyết định của doanh nghiệp khi tham gia vào sở hữu chung cơ sở vật chất kinh doanh xăng dầu. Do xăng dầu là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, cửa hàng xăng dầu là loại hình cơ sở vật chất quan trọng nhất, bảo đảm việc cung cấp xăng dầu cho thị trường (so với các loại hình cơ sở vật chất khác như kho, cầu cảng, phương tiện vận tải… có thể chỉ thuê), nên đối với các thương nhân đầu mối, thương nhân phân phối, tổng đại lý cần quy định doanh nghiệp phải sở hữu tối thiểu 2-5 cửa hàng nhằm bảo đảm các doanh nghiệp này có đủ năng lực thực sự để tham gia thị trường và cung ứng xăng dầu một cách ổn định, không bị phụ thuộc quá nhiều vào chủ thể cho thuê (trong trường hợp đi thuê cửa hàng). Với tỷ lệ sở hữu không dưới 35% sẽ không cho phép quá 02 doanh nghiệp cùng sở hữu 01 cửa hàng xăng dầu hay 01 loại hình cơ sở vật chất kinh doanh xăng dầu gây khó khăn cho việc quản lý của cơ quan quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, hiện nay, theo kiến nghị của các địa phương, doanh nghiệp, để phù hợp với thực tế và quyền kinh doanh cơ sở hạ tầng của người dân, doanh nghiệp, Nghị định quy định cho phép doanh nghiệp có thể thuê cửa hàng xăng dầu để kinh doanh. Theo đó, bên thuê sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn với việc đáp ứng quy chuẩn cửa hàng xăng dầu và đứng tên trên Giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu. Với điều kiện này, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể linh hoạt hơn trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng kinh doanh xăng dầu vừa thuận lợi cho cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương khi cấp Giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu trên địa bàn.
+ Sửa đổi yêu cầu về hồ sơ cấp lại Giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu: theo kiến nghị của Hiệp hội xăng dầu Việt Nam và một số Sở Công Thương, nhiều cửa hàng xăng dầu được xây dựng và tồn tại đã lâu (từ 15 đến trên 20 năm), khi các quy định về quản lý xây dựng, quản lý đất đai chưa đồng bộ, quy hoạch phát triển đô thị, quy hoạch chi tiết xây dựng... chưa được phê duyệt. Sau này, khi thực hiện việc cấp lại Giấy chứng nhận, các giấy tờ nêu trên chưa phù hợp với quy định mới, đồng thời chưa được chính quyền địa phương giải quyết dứt điểm dẫn tới khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc cấp lại Giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu. Nếu không cấp phép cho các cửa hàng cũ đang hoạt động do không đảm bảo về hồ sơ, giấy tờ hợp pháp về xây dựng, sử dụng đất và yêu cầu đóng cửa thì sẽ gây gián đoạn nguồn cung cho thị trường và gây khó khăn lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xăng dầu của xã hội. Vì vậy, Nghị định đã sửa đổi quy định về hồ sơ cấp lại Giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu không yêu cầu các giấy tờ liên quan đến giấy phép xây dựng và quyền sử dụng đất nếu cửa hàng không thay đổi quy mô hoạt động.
+ Bổ sung những điều kiện cụ thể hơn đối với hoạt động kinh doanh nhiên liệu hàng không: do việc kinh doanh nhiên liệu hàng không đòi hỏi kỹ thuật cao, cần bảo đảm tuyệt đối an toàn về nguồn nguyên liệu cung cấp cho các máy bay khi vận hành trên không trung (nhằm bảo đảm an toàn cho con người khi sử dụng phương tiện máy bay). Quy định này phù hợp với các quy định của các nước trên thế giới nên Nghị định sửa đổi, bổ sung đã quy định các điều kiện cụ thể trong hoạt động kinh doanh nhiên liệu bay như quy định cụ thể về hệ thống kho đầu mối, kho tiếp nhận tại sân bay, phương tiện vận tải, tra nạp, phòng thử nghiệm… Việc đưa ra các quy định này không gây khó khăn hơn cho các doanh nghiệp đang kinh doanh trong lĩnh vực nhiên liệu hàng không. Hiện các doanh nghiệp đã và đang phải đáp ứng các quy định này mới có thể cung cấp nhiên liệu hàng không cho các khách hàng là hãng hàng không trong và ngoài nước. Các quy định này không gây khó khăn doanh nghiệp, chỉ hướng dẫn cụ thể hơn cho các doanh nghiệp mới tham gia kinh doanh nhiên liệu hàng không để có thể đáp ứng các yêu cầu thiết yếu của các khách hàng, đồng thời tạo điều kiện cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc hướng dẫn doanh nghiệp đáp ứng điều kiện kinh doanh nhiên liệu hàng không một cách rõ ràng hơn.
- Về cơ chế điều hành giá xăng dầu
Sửa đổi quy định về mức biến động giá cơ sở giữa 02 kỳ điều hành giá liên tiếp cần xin ý kiến của Thủ tướng Chính phủ: nhằm tăng tính chủ động cho cơ quan điều hành giá và bảo đảm tính kịp thời cho thời gian điều hành giá sau khi có đủ các dữ liệu tính giá cho từng kỳ điều, trên cơ sở công thức tính giá cơ sở và cơ chế sử dụng Quỹ BOG đã được quy định cụ thể tại Nghị định, cơ quan chủ trì điều hành giá sẽ quyết định mức điều chỉnh giá trong phạm vi biến động 10% so với giá cơ sở kỳ trước (thay cho quy định trước đó là cơ quan chủ trì quyết định mức điều chỉnh giá trong phạm vi biến động 7%). Theo đó, Nghị định đã sửa đổi nội dung này như sau:
“Trường hợp các yếu tố cấu thành biến động làm cho giá cơ sở tăng trên mười phần trăm (> 10%) so với giá cơ sở liền kề trước đó, Bộ Công Thương có trách nhiệm báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định về biện pháp điều hành cụ thể.”.
- Về công thức tính giá cơ sở mặt hàng xăng dầu
Căn cứ tình hình thực tế hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế Việt Nam cho thấy xăng dầu vẫn là mặt hàng thiết yếu, có tính đặc thù nên giá bán lẻ trong nước sẽ được điều tiết thông qua giá cơ sở để hạn chế tối đa những phát sinh tiêu cực ảnh hưởng đến người dâu, doanh nghiệp và công tác điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Xuất phát từ thực tế cơ cấu nguồn cung xăng dầu trong nước (nguồn trong nước đã chiếm 70-75%, còn lại là nhập khẩu) và phương thức tính giá hiện hành của các nhà máy lọc dầu trong nước bán cho các thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu, tại dự thảo Nghị định đã sửa đổi, bổ sung công thức tính giá cơ sở được kết cấu từ 2 nguồn (nhập khẩu và trong nước) theo tỷ trọng tiêu thụ thực tế, cụ thể như sau:
+ Sửa công thức tính giá cơ sở đối với các mặt hàng xăng dầu (không bao gồm xăng sinh học)
Giá cơ sở xăng dầu được xác định bằng (=) Giá xăng dầu từ nguồn nhập khẩu nhân với (x) tỷ trọng (%) sản lượng xăng dầu từ nguồn nhập khẩu cộng (+) Giá xăng dầu từ nguồn sản xuất trong nước nhân với (x) tỷ trọng (%) sản lượng xăng dầu từ nguồn trong nước. Tỷ trọng (%) sản lượng xăng dầu từ nguồn trong nước và nhập khẩu để tính giá cơ sở các mặt hàng xăng dầu được xác định hàng Quý; Tỷ trọng sản lượng của Quý trước liền kề được áp dụng để tính giá cơ sở cho các kỳ điều hành giá cơ sở của Quý tiếp theo.
+ Bổ sung công thức tính giá cơ sở đối với xăng sinh học
Công thức tính giá cơ sở xăng sinh học hiện đang được quy định chi tiết tại Thông tư liên tịch số 90/2016/TTLT-BTC-BCT. Tuy nhiên, để bảo đảm nguyên tắc quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (không còn hình thức thông tư liên tịch giữa các Bộ) nên vấn đề này đã được đưa vào Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung. Qua đó một mặt nâng cao tính pháp lý, tạo thuận lợi cho việc triển khai thực hiện, một mặt tăng cường tính công khai, minh bạch của chính sách.
Trên cơ sở đó, tương tự như giá cơ sở các mặt hàng xăng dầu khác, công thức giá cơ sở xăng sinh học cơ bản kế thừa quy định tại Thông tư liên tịch số 90/2016/TTLT-BTC-BCT và được tính bình quân 02 mức giá dựa trên các yếu tố chi phí hình thành từ hai nguồn (trong nước và nhập khẩu); cụ thể:
Giá cơ sở xăng sinh học được xác định bằng (=) tỷ lệ phần trăm thể tích xăng không chì (%) nhân (x) {(giá xăng thế giới cộng (+) chi phí đưa xăng từ nước ngoài về cảng Việt Nam cộng (+) chi phí về thuế nhập khẩu xăng) nhân (x) tỷ trọng sản lượng xăng nhập khẩu cộng (+) (giá xăng thế giới cộng (+) premium cộng (+) chi phí đưa xăng từ nhà máy lọc dầu trong nước đến cảng (nếu có)) nhân (x) tỷ trọng sản lượng xăng từ nguồn sản xuất trong nước)} cộng (+) tỷ lệ phần trăm thể tích Etanol nhiên liệu (%) nhân (x) giá Etanol nhiên liệu cộng (+) chi phí kinh doanh định mức cộng (+) mức trích lập Quỹ bình ổn giá cộng (+) lợi nhuận định mức cộng (+) các khoản chi phí về thuế, phí và các khoản trích nộp khác theo quy định của pháp luật hiện hành.
- Về Quỹ Bình ổn giá xăng dầu
Để tăng cường hơn nữa tính công khai, minh bạch và trách nhiệm của Thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu trong việc thực hiện trích lập, sử dụng và quản lý số dư Quỹ BOG xăng dầu, Nghị định sửa đổi, bổ sung đã quy định rõ hơn, chặt chẽ hơn cơ chế báo cáo, theo dõi (số dư tài khoản Quỹ BOG tại ngân hàng), trách nhiệm công bố công khai số dư Quỹ BOG. Đồng thời, rà soát sửa đổi quy định về cách tính lãi suất tiền gửi đối với số tiền Quỹ để tại các ngân hàng thương mại theo đó sẽ được tính theo mức lãi suất tiền gửi không thấp hơn lãi suất không kỳ hạn áp dụng cho tài khoản tiền gửi của ngân hàng thương mại và hạch toán tăng vào tài khoản Quỹ; quy định về nguồn tài chính trong trường hợp thương nhân xăng dầu đầu mối thực hiện sử dụng Quỹ BOG trong khi Quỹ BOG tại doanh nghiệp đang bị âm, theo đó quy định cách tính lãi suất vay khi Quỹ âm theo mức lãi suất thỏa thuận thấp nhất giữa ngân hàng và doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu cho phù hợp với Luật các tổ chức tín dụng.
- Quy định về chu kỳ điều chỉnh giá
Thời gian vừa qua, có những lúc giá xăng dầu trên thị trường thế giới có biến động liên tục với biên độ lớn, trong khi đó giá trong nước không được điều chỉnh kịp thời (theo quy định tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, điều hành tăng giá tối thiểu phải 15 ngày) dẫn đến việc mất cân đối cung cầu do doanh nghiệp càng bán hàng càng lỗ lớn khi giá trong nước quá chênh lệch với giá thế giới nên có ý kiến cho rằng cần rút ngắn chu kỳ điều hành giá xăng dầu cho phù hợp với biến động giá thế giới. Do đó, Nghị định đã sửa đổi quy định về chu kỳ điều chỉnh giá xăng dầu theo hướng rút ngắn chu kỳ điều hành giá xăng dầu từ 15 ngày xuống còn 10 ngày để sát với diễn biến của giá thành phẩm xăng dầu thế giới, đồng thời cũng bổ sung quy định trong trường hợp giá xăng dầu có biến động lớn, bất thường, ảnh hưởng đến kinh tế xã hội, Bộ Công Thương báo cáo Thủ tướng xem xét, quyết định thời gian điều hành giá cụ thể cho kỳ điều hành đó. Kỳ điều hành giá sẽ được xác định cụ thể vào 03 thời điểm trong tháng là ngày 01, ngày 11 và ngày 21 hàng tháng để phù hợp với chu kỳ lấy giá trong tính chỉ số giá tiêu dùng CPI hàng tháng hiện nay, đồng thời thuận lợi hơn trong việc tổng hợp các dữ liệu tính giá từ báo cáo của các doanh nghiệp hàng Quý, hàng tháng.
- Quy định về dự trữ xăng dầu
+ Về thời gian dự trữ xăng dầu: Sửa đổi quy định về dự trữ xăng dầu theo hướng giảm số ngày dự trữ bắt buộc của thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu từ 30 ngày xuống 20 ngày, bổ sung trách nhiệm dự trữ đối với thương nhân phân phối thêm 05 ngày và của thương nhân sản xuất xăng dầu theo quy định để bảo đảm sự công bằng và chia sẻ trách nhiệm giữa các doanh nghiệp tham gia cung ứng xăng dầu tại thị trường trong nước.
+ Về cơ chế sử dụng xăng dầu dự trữ: Do trong Nghị định số 83/2014/NĐ-CP có quy định về việc dự trữ xăng dầu bắt buộc nhưng chưa có quy định về cơ chế sử dụng lượng xăng dầu dự trữ bắt buộc này nên Nghị định sửa đổi đã đưa thêm nội dung về cơ chế sử dụng lượng xăng dầu dự trữ bắt buộc theo hướng ngoài việc tuân thủ quy định về dự trữ quốc gia cần thực hiện theo chỉ đạo của Bộ Công Thương để thực hiện mục tiêu bình ổn thị trường khi cần thiết.
- Sửa đổi, bổ sung một số nội dung khác
+ Sửa đổi, bổ sung nội dung giải thích từ ngữ để thống nhất cách hiểu trong khuôn khổ Nghị định (quy định tại Điều 3 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP) như khái niệm về xăng dầu; sản xuất xăng dầu; giá thế giới; giá cơ sở; thương nhân đầu mối; nhiên liệu sinh học; Quỹ bình ổn giá xăng dầu...
+ Bỏ quy định về áp dụng công cụ nghiệp vụ phái sinh (quy định tại Khoản 6 Điều 9) do đây là nội dung chuyên ngành đã được điều chỉnh tại Nghị định số 51/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 158/2006/NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ uy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở Giao dịch hàng hóa.
+ Bổ sung trong hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận nội dung có bản sao Hợp đồng mua bán xăng dầu giữa các doanh nghiệp cho phù hợp với các quy định trong mẫu Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận đã quy định tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP.
+ Bổ sung quyền nhập khẩu xăng dầu thành phẩm cho các thương nhân sản xuất xăng dầu để bảo đảm thực hiện các hợp đồng đã ký với thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu trong trường hợp sản xuất xăng dầu của các Nhà máy bị gián đoạn. Trong trường hợp này, thương nhân sản xuất xăng dầu sẽ được nhập khẩu xăng dầu trên cơ sở có ý kiến của Bộ Công Thương sau khi thực hiện việc cân đối tổng nguồn xăng dầu tối thiểu tại từng giai đoạn cụ thể; bổ sung quyền nhập khẩu, xuất khẩu, phân phối (như quyền của các Nhà máy lọc dầu) của đơn vị thực hiện bao tiêu sản phẩm xăng dầu của Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn để phù hợp với trách nhiệm của đơn vị này trong việc thực hiện cam kết của Chính phủ khi thực hiện dự án xây dựng Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn.
+ Bổ sung quyền mua bán xăng dầu của thương nhân phân phối xăng dầu với thương nhân phân phối khác và quyền bán xăng dầu cho các đơn vị trực tiếp sử dụng xăng dầu sản xuất cho phù hợp với thực tế doanh nghiệp đang kinh doanh. 
+ Theo đề nghị của Bộ Quốc phòng, để chủ động nguồn hàng cho lực lượng quân đội, phát huy năng lực trong nước thay thế và tránh lệ thuộc hàng nhập khẩu, cấp phát trực tiếp đến các đơn vị chiến đấu nhằm bảo đảm bí mật quân sự, Nghị định đã sửa đổi nội dung quyền bán xăng dầu của thương nhân sản xuất xăng dầu theo hướng được phép bán xăng dầu trực tiếp cho các đơn vị chức năng để phục vụ mục tiêu an ninh, quốc phòng theo danh sách đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. 
Ban hành kèm theo Nghị định này Phụ lục các Biểu mẫu: (1) Mẫu số 1 - Đơn đề nghị cấp/cấp bổ sung, sửa đổi/cấp lại Giấy xác nhận đủ điều kiện làm thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu; (2) Mẫu số 2 - Giấy xác nhận đủ điều kiện làm thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu; (3) Mẫu số 3 - Đơn đề nghị cấp/cấp bổ sung, sửa đổi/cấp lại Giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu; (4) Mẫu số 3a - Đơn đề nghị cấp/cấp lại do thay đổi thông tin Giấy tiếp nhận thông báo kinh doanh xăng dầu bằng thiết bị bán xăng dầu quy mô nhỏ; (5) Mẫu số 4a - Giấy tiếp nhận thông báo kinh doanh xăng dầu bằng thiết bị bán xăng dầu quy mô nhỏ.
2. Nghị định số 96/2021/NĐ-CP ngày 02 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ về công tác bảo đảm chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực kể từ ngày 02/11/2021, thay thế Nghị định số 03/2009/NĐ-CP ngày 09/01/2009 của Chính phủ quy định về công tác bảo đảm chuyến bay chuyên cơ.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Nghị định số 03/2009/NĐ-CP ngày 09/01/2009 của Chính phủ quy định về công tác bảo đảm chuyến bay chuyên cơ trải qua hơn 10 năm thi thành bên cạnh những kết quả đạt được đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế cần được sửa đổi, cụ thể như sau:
- Nghị định số 03/2009/NĐ-CP được ban hành trong bối cảnh các doanh nghiệp trong lĩnh vực hàng không dân dụng vẫn do Nhà nước là chủ sở hữu (nắm giữ 100% vốn điều lệ) do vậy, nội dung Nghị định được xây dựng trên quan điểm các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ chuyên cơ là nghĩa vụ với chủ sở hữu. Đến thời điểm hiện tại, các doanh nghiệp ngành hàng không đã có hình thức sở hữu đa dạng (hầu hết là công ty cổ phần) nên cần có các quy định phù hợp hơn theo hướng các hãng hàng không nhận đặt hàng cung ứng dịch vụ chuyên cơ từ các cơ quan có thẩm quyền.
- Việc sử dụng cụm từ “chuyên khoang hoặc chuyên cơ” theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 11 của Luật Cảnh vệ số 13/2017/QH17 ngày 20/6/2017 có sự khác biệt với khái niệm trong Luật Hàng không dân dụng về chuyến bay chuyên cơ; cần phải có quy định cụ thể đối tượng được sử dụng “chuyên cơ”, “chuyên khoang” trong các biện pháp, chế độ cảnh vệ. Do vậy các quy định chuyên ngành hàng không cũng cần được điều chỉnh phù hợp theo pháp luật về công tác bảo đảm an toàn tuyệt đối cho đối tượng được cảnh vệ bằng cách xác định rõ khái niệm của “chuyên cơ” “chuyên khoang”.
- Theo thống kê, số lượng chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang của Việt Nam và nước ngoài hoạt động ngày càng tăng, một số vấn đề phát sinh trong quá trình phục vụ chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang cần được điều chỉnh phù hợp với thực tiễn để đảm bảo an ninh, an toàn và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong quá trình triển khai thực hiện, bao gồm: Khó khăn trong việc tuân thủ đầy đủ các tiêu chuẩn, quy trình chuyên cơ trong trường hợp thông báo chuyến bay chuyên cơ muộn hơn thời gian quy định hoặc thay đổi kế hoạch vào giờ chót; đặc biệt là việc áp dụng tiêu chuẩn, quy trình áp dụng trong trường hợp đối tượng được phục vụ chuyên cơ (nước ngoài) đi chuyến bay thương mại của hãng hàng không nước ngoài hoặc Việt Nam;
- Chưa có quy định cụ thể về đối tượng chuyên chở trên các chuyến bay chuyên cơ của nước ngoài bay đến, đi Việt Nam được áp dụng tiêu chuẩn, quy trình bảo đảm chuyên cơ;
+ Chưa quy định trách nhiệm phục vụ chuyến bay chuyên cơ nước ngoài đối với doanh nghiệp cảng hàng không, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay; một số quy định về trách nhiệm của cơ quan, đơn vị chưa rõ ràng, chưa thống nhất;
+ Chưa có quy định cụ thể của pháp luật về đặt hàng, giao kế hoạch, thanh
toán chi phí chuyên cơ đối với các chuyến bay chuyên cơ theo thông báo của Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ và các chuyến bay chuyên cơ do Bộ Quốc phòng thực hiện;
+ Quy định chưa cụ thể về nguyên tắc bảo vệ bí mật nhà nước trong việc
triển khai thông báo chuyến bay chuyên cơ dẫn đến khó khăn trong quá trình thực hiện công tác triển khai phục vụ, đặc biệt khó khăn trong các trường hợp: triển khai cho Chi nhánh hãng hàng không Việt Nam ở nước ngoài, cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài gửi hồ sơ xin phép bay, triển khai chuyến bay chuyên cơ thông báo muộn hơn thời gian quy định và triển khai thay đổi kế hoạch bay vào giờ chót theo hệ thống thông tin hàng không hiện nay.
Do vậy, để phù hợp với thực tiễn công tác bảo đảm chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang đồng thời khắc phục các vướng mắc còn tồn tại nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác bảo đảm chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang, việc xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 03/2009/NĐ-CP của Chính phủ là cần thiết.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định bao gồm 5 Chương với 20 Điều, cụ thể như sau:
- Chương I. Quy định chung: gồm 3 Điều (từ Điều 1 đến Điều 3). Nội dung của Chương này quy định về đối tượng điều chỉnh, phạm vi áp dụng, giải thích từ ngữ và nguyên tắc thực hiện chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang.
- Chương II. Bảo đảm chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang của Việt Nam: gồm 4 Điều (từ Điều 4 đến Điều 7). Nội dung của Chương này quy định về đối tượng được phục vụ chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang của Việt Nam thống nhất với Luật Cảnh vệ năm 2017; cơ quan có thẩm quyền thông báo chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang của Việt Nam; Doanh nghiệp nhận đặt hàng, đơn vị được giao thực hiện chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang của Việt Nam; nội dung và thời hạn Thông báo chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang của Việt Nam.
- Chương III. Bảo đảm chuyến bay chuyên cơ của nước ngoài: gồm 4 Điều (từ Điều 8 đến Điều 11). Nội dung của Chương này quy định việc áp dụng tiêu chuẩn, quy trình bảo đảm đối với chuyến bay chuyên cơ của nước ngoài bay đến, đi Việt Nam (cụ thể hóa đối tượng áp dụng theo tiêu chuẩn chuyên cơ đồng bộ nghi thức đón tiễn quy định tại Nghị định số 145/2013/NĐ-CP); cơ quan Việt
Nam có thẩm quyền thông báo chuyến bay chuyên cơ của nước ngoài; nội dung và thời hạn thông báo chuyến bay chuyên cơ của nước ngoài.
- Chương IV. Trách nhiệm của cơ quan, đơn vị có liên quan: gồm 7 Điều (từ Điều 12 đến Điều 18). Nội dung của Chương này quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị có nhiệm vụ bảo đảm chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang.
- Chương V. Điều khoản thi hành: gồm 2 Điều (từ Điều 19 đến Điều 20).
Các nội dung cụ thể:
- Phạm vi điều chỉnh:
Nghị định này quy định về công tác bảo đảm chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang của Việt Nam và chuyến bay chuyên cơ của nước ngoài bay trong vùng trời Việt Nam và vùng thông báo bay do Việt Nam quản lý.
- Đối tượng áp dụng: Dự thảo Nghị định quy định đối tượng áp dụng bao gồm: các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc bảo đảm chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang của Việt Nam và chuyến bay chuyên cơ của nước ngoài bay trong vùng trời Việt Nam và vùng thông báo bay do Việt Nam quản lý.
- Nội dung cơ bản của Nghị định:
+ Cụ thể hóa khái niệm “chuyên cơ”, “chuyên khoang” theo Luật Cảnh vệ năm 2017 để Bộ GTVT làm căn cứ ban hành các tiêu chuẩn, quy trình, yêu cầu lựa chọn tàu bay, trang thiết bị, nhân viên hàng không phù hợp với pháp luật về cảnh vệ tăng cường bảo đảm an toàn, an ninh cho đối tượng cảnh vệ phù hợp với từng hình thức chuyến bay được cơ quan có thẩm quyền lựa chọn.
+ Xác định đối tượng được phục vụ chuyến bay chuyên cơ của nước ngoài để từ đó quy định các tiêu chuẩn, quy trình phục vụ phù hợp với hình thức chuyến bay một cách thống nhất, thuận lợi, trọng thị theo đúng nghi lễ thống nhất với Luật Cảnh vệ 2017, Nghị định số 145/2013/NĐ-CP.
+ Quy định cụ thể hơn cơ chế trách nhiệm triển khai nhiệm vụ phục vụ
chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang từ Cục Hàng không Việt Nam đối với hãng hàng không và các đơn vị cung cấp dịch vụ khác tham gia nhiệm vụ bảo đảm chuyên cơ, chuyên khoang.
+ Xác định nguyên tắc bảo đảm bí mật trong triển khai công tác bảo đảm
chuyến bay chuyên cơ, chuyên khoang, cụ thể là bảo đảm bí mật Kế hoạch bảo
đảm an ninh cho đối tượng chuyên cơ, chuyên khoang theo quy định của pháp
luật.
+ Điều chỉnh, bổ sung quy định liên quan đến công tác bảo đảm chuyến bay chuyên cơ thống nhất với các quy định quản lý giá theo pháp luật về giá và quản lý dịch vụ công ích trong việc đặt hàng thực hiện chuyến bay chuyên cơ và thanh toán chi phí chuyên cơ.
3. Nghị định số 97/2021/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 23/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ quy định về bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực từ ngày 23 tháng 12 năm 2021.
Các hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc đã giao kết trước ngày Nghị định này có hiệu lực được tiếp tục thực hiện theo quy định pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm. Trường hợp sửa đổi, bổ sung hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc có nội dung sửa đổi, bổ sung được quy định tại Nghị định này thì thực hiện theo quy định tại Nghị định này.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Ngày 23/02/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 23/2018/NĐ-CP quy định về bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc (BHCNBB), theo đó mức phí bảo hiểm được áp dụng tương ứng theo từng danh mục cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 79/2014/NĐ-CP ngày 31/7/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy và văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế (nếu có).
Ngày 24/11/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng cháy và chữa cháy và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy, hiệu lực thi hành từ ngày 10/01/2021, thay thế Nghị định số 79/2014/NĐ-CP. Danh mục cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ được sửa đổi và quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 136/2020/NĐ-CP. Do đó, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Nghị định số 23/2018/NĐ-CP về mức phí bảo hiểm đối với cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ để phù hợp với Nghị định số 136/2020/NĐ-CP.
Ngoài ra, Nghị định số 23/2018/NĐ-CP không quy định doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) phải cấp Giấy chứng nhận BHCNBB nên cơ quan Công an có thẩm quyền gặp khó khăn trong việc kiểm tra việc thực hiện mua BHCNBB của cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ nên cần thiết bổ sung quy định này.
Trong tình hình các vụ cháy lớn thường xuyên xảy ra, để tăng cường hỗ trợ trang bị phương tiện, thiết bị phòng cháy, chữa cháy cho lực lượng Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy, Bộ Công an đề nghị tăng mức chi cho hỗ trợ trang bị phương tiện, thiết bị phòng cháy và chữa cháy, giảm mức chi cho tuyên truyền, hỗ trợ điều tra nguyên nhân vụ cháy, khen thưởng...
Theo quy định, DNBH nộp trực tiếp kinh phí đóng góp cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy (PCCC) từ BHCNBB vào Tài khoản của Cục Cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ do Bộ Công an mở tại Kho bạc Nhà nước Trung ương, gửi báo cáo tình hình thu nộp kinh phí tới Bộ Tài chính. Để việc rà soát số liệu thống nhất và thuận tiện, cần thiết sửa đổi quy định về việc DNBH gửi báo cáo nộp kinh phí cho Bộ Tài chính theo quy định tại Nghị định số 23/2018/NĐ-CP thành DNBH gửi báo cáo nộp kinh phí cho Bộ Công an (Cục Cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ).
c) Nội dung chủ yếu:
- Sửa đổi, bổ sung mức phí BHCNBB để phù hợp với danh mục cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 136/2020/NĐ-CP
+ Đối với danh mục cơ sở đã được quy định mức phí tại Nghị định số 23/2018/NĐ-CP và danh mục cơ sở có rủi ro tương đồng: Mức phí BHCNBB quy định tương tự tại Nghị định số 23/2018/NĐ-CP.
+ Đối với danh mục cơ sở mới: Mức phí BHCNBB trên cơ sở đề xuất của DNBH, doanh nghiệp tái bảo hiểm, thông lệ thị trường bảo hiểm và lịch sử tổn thất một số nhóm cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ đặc thù của Việt Nam.
+ Đối với danh mục cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ theo phân hạng A, B, C, D, E (nhóm 16): Quy định hiện hành chưa chi tiết cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ theo phân hạng A, B, C, D, E gây khó khăn cho DNBH và cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ áp dụng mức phí bảo hiểm theo quy định. Vì vậy, theo đề nghị của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, DNBH, ý kiến của Bộ Công an, Nghị định quy định theo hướng liệt kê chi tiết cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ theo phân hạng A, B, C, D, E để dễ theo dõi, thực hiện. 
Ngoài ra, để thống nhất việc áp dụng mức phí bảo hiểm đối với các cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ, Nghị định sửa đổi quy định về mức phí bảo hiểm đối với cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ có tổng số tiền bảo hiểm của các tài sản tại một địa điểm từ 1.000 tỷ đồng trở lên (trừ cơ sở hạt nhân) theo hướng: DNBH và bên mua bảo hiểm thỏa thuận mức phí bảo hiểm trên cơ sở được doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm chấp thuận. Trong mọi trường hợp, mức phí bảo hiểm không được thấp hơn mức phí bảo hiểm tương ứng với 1.000 tỷ đồng nhân (x) tỷ lệ phí bảo hiểm quy định tại Nghị định.
- Sửa đổi, bổ sung một số nội dung để phù hợp với tình hình thực tiễn triển khai.
+ Sửa đổi quy định về đối tượng áp dụng theo hướng không quy định viện dẫn số hiệu văn bản cụ thể để đảm bảo được tính dự báo, thống nhất với hệ thống pháp luật, hạn chế việc phải sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế.
+ Bổ sung quy định về Giấy chứng nhận BHCNBB: DNBH phải cấp Giấy chứng nhận BHCNBB. Giấy chứng nhận BHCNBB do DNBH chủ động thiết kế và phải bao gồm một số nội dung trên cơ sở kế thừa quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 23/2018/NĐ-CP (Tên DNBH, tên và địa chỉ người được bảo hiểm, tên và địa chỉ bên mua bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm…); bổ sung nội dung thông tin về đường dây nóng của DNBH trên Giấy chứng nhận BHCNBB để bên mua bảo hiểm có thể liên hệ khi cần thiết; bổ sung quy định về cấp Giấy chứng nhận BHCNBB điện tử để đáp ứng xu thế của cuộc cách mạng công nghệ 4.0, tạo điều kiện thuận lợi cho DNBH và bên mua bảo hiểm thực hiện.
+ Sửa đổi tỷ lệ chi từ nguồn thu từ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy để tăng cường đầu tư trang thiết bị, phương tiện cho hoạt động phòng cháy và chữa cháy, theo đó: Tăng tỷ lệ chi cho hỗ trợ trang thiết bị, phương tiện phòng cháy, chữa cháy từ 40% lên 65%; giảm tỷ lệ chi cho tuyên truyền, hỗ trợ điều tra nguyên nhân vụ cháy, kiểm tra an toàn về phòng cháy và chữa cháy, khen thưởng công tác phòng cháy và chữa cháy từ 60% xuống 35%.
+ Bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân có cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ và trách nhiệm của Bộ Công an trong việc ghi hạng nguy hiểm cháy nổ A, B, C, D, E của cơ sở sản xuất công nghiệp tại Biên bản nghiệm thu hoặc Biên bản kiểm tra an toàn về phòng cháy và chữa cháy đối với cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ để tạo thuận lợi cho DNBH và bên mua bảo hiểm thỏa thuận phí bảo hiểm theo quy định.
+ Sửa đổi quy định về chế độ báo cáo của DNBH để đảm bảo phù hợp với quy định tại Nghị định số 09/2019/NĐ-CP ngày 24/01/2019 của Chính phủ quy định chế độ báo cáo của cơ quan hành chính nhà nước và đảm bảo thông tin kịp thời về nguồn kinh phí đóng góp cho hoạt động PCCC từ BHCNBB cho Bộ Công an. 
Ban hành kèm theo Nghị định này 03 Phụ lục: (1) Mức phí bảo hiểm và mức khấu trừ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc; (2) Báo cáo doanh thu, bồi thường bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc; (3) Báo cáo tình hình thu, nộp từ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc.
4. Nghị định số 98/2021/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ về quản lý trang thiết bị y tế
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định số 98/2021/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
Các Nghị định, quy định hết hiệu lực kể từ ngày Nghị định số
98/2021/NĐ-CP có hiệu lực thi hành:
- Nghị định số 36/2016/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ về quản lý trang thiết bị y tế;
- Nghị định số 169/2018/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 36/2016/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ về quản lý trang thiết bị y tế;
- Nghị định số 03/2020/NĐ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Điều 68 Nghị định số 36/2016/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ về quản lý trang thiết bị y tế đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 169/2018/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 36/2016/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ về quản lý trang thiết bị y tế.
- Quy định tại Điều 7 Nghị định số 181/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật quảng cáo kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2022.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Một là, xuất phát từ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện, cụ thể như sau:
- Về cấp số lưu hành:
+ Chưa có quy định về việc cấp nhanh, cấp khẩn cấp số lưu hành trong tình trạng cấp bách phục vụ phòng, chống dịch bệnh nên trong thời gian qua Bộ Y tế gặp nhiều khó khăn trong việc cấp phép để đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống dịch;
+ Thực tiễn quản lý cho thấy trang thiết bị y tế đã được cấp số lưu hành bởi các nước hoặc tổ chức có uy tín như FDA của Mỹ, TGA của Úc, Bộ Y tế và phúc lợi của Nhật Bản, Health Canada của Canada, cơ quan quản lý trang thiết bị y tế của các nước thành viên EU thì đều bảo đảm chất lượng. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về quản lý trang thiết bị y tế chưa có cơ chế cho phép thừa nhận số lưu hành do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đã cấp tương tự như quy định của Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật an toàn thực phẩm.
- Về nghiên cứu lâm sàng trang thiết bị y tế: Theo quy định hiện hành, trang thiết bị y tế xâm nhập thuộc loại C, D phải có tài liệu về kết quả nghiên cứu giá lâm sàng và thực tế quản lý trang thiết bị y tế giai đoạn vừa qua cho thấy các quy định về nghiên cứu lâm sàng trang thiết bị y tế do Bộ Y tế ban hành đã không còn phù hợp thực tiễn nên dẫn đến tình trạng các cơ sở sản xuất trong nước gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên, Bộ Y tế không thể ban hành văn bản sửa đổi do các quy định về nghiên cứu lâm sàng đối với trang thiết bị y tế có liên quan đến điều kiện của cơ sở nhận nghiên cứu lâm sàng đối với trang thiết bị y tế, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân có trang thiết bị y tế phải nghiên cứu lâm sàng, quyền và nghĩa vụ của cơ sở nhận nghiên cứu lâm sàng đối với trang thiết bị y tế mà theo quy định của pháp luật về đầu tư và ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì các nội dung liên quan đến điều kiện đầu tư, kinh doanh phải quy định ở văn bản cấp Nghị định trở lên và thủ tục hành chính phải quy định ở văn bản cấp Quyết định của Thủ tướng Chính phủ trở lên.
- Về quản lý giá trang thiết bị y tế: Thực tế quản lý trang thiết bị y tế giai đoạn vừa qua cho thấy do pháp luật hiện hành quy định trang thiết bị y tế không thuộc mặt hàng quản lý giá nên xuất hiện tình trạng mua bán lòng vòng để nâng giá trang thiết bị y tế, cùng một loại trang thiết bị y tế nhưng có nhiều mức giá khác nhau dẫn đến khó khăn trong mua sắm, đấu thầu.
Hai là, thực hiện nhiệm vụ tiếp tục cắt giảm các điều kiện đầu tư kinh doanh theo Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2021 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi
trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021 và Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2020 của Chính phủ ban hành Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025, cụ thể như sau:
- Bãi bỏ điều kiện đối với người thực hiện phân loại, tổ chức phân loại và
cắt bỏ thủ tục hành chính công bố đủ điều kiện phân loại trang thiết bị y tế. Việc phân loại trang thiết bị y tế sẽ do Chủ sở hữu số lưu hành trang thiết bị y tế thực hiện và chịu trách nhiệm về kết quả phân loại;
- Bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký lưu hành đối với trang thiết
bị y tế loại B và chuyển sang hình thức tiếp nhận hồ sơ công bố tiêu chuẩn tại các Sở Y tế, theo đó doanh nghiệp sẽ thực hiện thủ tục công bố hồ sơ và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của hồ sơ cũng như chất lượng trang thiết bị y tế;
- Bãi bỏ hóa thủ tục cấp mới, cấp lại, điều chỉnh xác nhận nội dung quảng cáo trang thiết bị y tế và thay bằng hình thức quản lý: doanh nghiệp đăng ký khai báo trực tuyến công khai nội dung quảng cáo trên hệ thống, đồng thời gắn trách nhiệm của doanh nghiệp và tăng hình thức xử phạt vi phạm, thu hồi số lưu hành nếu có sai phạm;
- Đơn giản hóa thành phần hồ sơ cấp nhanh đăng ký lưu hành theo hình thức thừa nhận đối với các trang thiết bị y tế đã được nước tham chiếu cấp lưu hành hoặc đã được nhập khẩu, lưu hành và sử dụng tại Việt Nam;
- Đơn giản hóa việc thực hiện các thủ tục công bố: Đủ điều kiện sản xuất, mua bán, tư vấn theo hướng bỏ thủ tục cấp phiếu tiếp nhận của cơ quan quản lý, trong đó doanh nghiệp sẽ đăng ký khai báo trực tuyến trên hệ thống và sau khi khai báo thành công các doanh nghiệp có thể thực hiện luôn mà không cần phải có Phiếu tiếp nhận của cơ quan quản lý.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định số 98/2021/NĐ-CP có 13 chương, 77 điều, cụ thể:
- Nghị định số 98/2021/NĐ-CP quy định việc quản lý trang thiết bị y tế bao gồm: phân loại trang thiết bị y tế; sản xuất, nghiên cứu lâm sàng, lưu hành, mua bán, xuất khẩu, nhập khẩu, cung cấp dịch vụ trang thiết bị y tế; thông tin, quảng cáo trang thiết bị y tế; quản lý giá trang thiết bị y tế và quản lý, sử dụng trang thiết bị y tế tại các cơ sở y tế.
- Nghị định số 98/2021/NĐ-CP không áp dụng đối với:
+ Nguyên vật liệu, bán thành phẩm để sản xuất trang thiết bị y tế, trừ nguyên liệu có chứa chất ma túy và tiền chất; Nguyên liệu sản xuất trang thiết bị y tế là mẫu máu, huyết thanh, huyết tương, nước tiểu, phân, dịch tiết cơ thể người, các mẫu khác từ người khi nhập khẩu, xuất khẩu phải bảo đảm an toàn sinh học theo quy định của pháp luật; Khí y tế; Phụ kiện sử dụng cùng trang thiết bị y tế; Các sản phẩm dùng trong y tế với mục đích nghiên cứu (Research Use Only - RUO), các sản phẩm dùng trong phòng thí nghiệm (Laboratory Use Only- LUO).
- Các nội dung chủ yếu Nghị định số 98/2021/NĐ-CP thay đổi căn bản hoạt động cấp phép lưu hành theo hướng chuyển cơ chế quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm, cụ thể như sau:
+ Đối với trang thiết bị y tế thuộc loại B: Chuyển từ xem xét, cấp phép lưu hành sang doanh nghiệp tự công bố tiêu chuẩn áp dụng;
+ Đối với trang thiết bị y tế thuộc loại C, D: Áp dụng cơ chế thừa nhận kết quả cấp số lưu hành của các các nước có quy trình quản lý chất lượng và cấp phép lưu hành chặt chẽ như Mỹ, Nhật Bản, Canada, Úc…. Theo đó, nếu trang thiết bị y tế đã được các nước nêu trên cấp phép lưu hành thì Bộ Y tế sẽ thừa nhận kết quả cấp này để cấp lưu hành tại Việt Nam mà không cần xem xét hồ sơ kỹ thuật. Thời gian cấp giảm xuống còn là 10 ngày làm việc so 60 ngày như trước đây.
+ Thay đổi quy trình cấp đăng ký lưu hành theo hướng minh bạch toàn bộ quá trình cấp phép lưu hành, trong đó đã phân cấp cho các đơn vị chuyên môn thực hiện việc đánh giá hồ sơ kỹ thuật, kiểm soát chất lượng và dựa trên kết quả đánh giá của các đơn vị này, Bộ Y tế sẽ thực hiện việc cấp phép sau khi rà soát hồ sơ hành chính. Nghị định số 98/2021 /NĐ-CP thực hiện triệt để cải cách thủ tục hành chính, bao gồm việc bãi bỏ điều kiện và một số thủ tục, cũng nhưng đơn giản hóa các thủ tục giấy tờ như:
+ Bãi bỏ điều kiện đối với người thực hiện phân loại, tổ chức phân loại và cắt bỏ thủ tục hành chính công bố đủ điều kiện phân loại trang thiết bị y tế. Việc phân loại trang thiết bị y tế sẽ do Chủ sở hữu số lưu hành trang thiết bị y tế thực hiện và chịu trách nhiệm về kết quả phân loại.
+ Bãi bỏ thủ tục cấp mới, cấp lại, điều chỉnh xác nhận nội dung quảng cáo trang thiết bị y tế và thay bằng hình thức quản lý doanh nghiệp tự đăng tải công khai trên Cổng thông tin điện tử về quản lý trang thiết bị y tế nội dung, hình thức dự kiến quảng cáo và được thực hiện sau khi đã công khai.
+ Đơn giản hóa việc thực hiện các thủ tục công bố: Đủ điều kiện sản xuất, mua bán, tư vấn theo hướng bỏ thủ tục cấp phiếu tiếp nhận của cơ quan quản lý, trong đó doanh nghiệp sẽ đăng ký khai báo trực tuyến trên hệ thống và sau khikhai báo thành công các doanh nghiệp được thực hiện luôn mà không cần phải có Phiếu tiếp nhận của cơ quan quản lý.
+ Sửa đổi hiệu lực của số lưu hành của trang thiết bị y tế có giá trị không
thời hạn, thay vì 05 năm như trước. Doanh nghiệp không phải thực hiện thủ tục gia hạn như trước đây, nhưng có trách nhiệp cập nhật hồ sơ khi có thay đổi trong quá trình lưu hành trang thiết bị y tế. Đặc biệt, Nghị định 98/2021 bổ sung các biện pháp quản lý giá trang thiết bị y tế nhằm mục tiêu giải quyết các tồn tại, bất cập trong quản lý giá giai đoạn vừa qua như cùng một trang thiết bị y tế nhưng có nhiều mức giá, giá trúng thầu giữa các cơ sở y tế có sự khác biệt đáng kể, không có mức giá tham khảo để xây dựng kế hoạch lựa chọn nhà thầu.
5. Nghị định số 99/2021/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán sử dụng vốn đầu tư công
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
 Bãi bỏ các quy định:
- Về thành phần hồ sơ tại các khoản 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 và quy định về mẫu tờ khai tại điểm a khoản 16 Điều 8 Nghị định số 11/2020/NĐ-CP ngày 20 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ quy định về thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực Kho bạc Nhà nước.
- Về thành phần hồ sơ tại các khoản 4, 5, 6 và quy định về mẫu tờ khai điểm a khoản 12 Điều 9 Nghị định số 11/2020/NĐ-CP ngày 20 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ.
- Về thành phần hồ sơ của dự án (dự án thành phần) sử dụng vốn nước ngoài thuộc kế hoạch đầu tư phát triển được ngân sách nhà nước cấp phát toàn bộ và dự án cấp phát một phần, vay lại một phần theo tỷ lệ tại khoản 4 và quy định về mẫu tờ khai đối với trường hợp chi đầu tư tại điểm a khoản 10 Điều 10 Nghị định số 11/2020/NĐ-CP ngày 20 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Căn cứ pháp lý: Khoản 4 Điều 81 Luật Đầu tư công giao Bộ Tài chính chủ trì trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công.
Trước khi Nghị định số 99/2021/NĐ-CP ngày 11/11/2021 được ban hành, có hiệu lực, việc quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công được quy định tại các Thông tư của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Tuy nhiên, việc quy định tại nhiều Thông tư có một số hạn chế, khoảng trống nhất định về mặt pháp lý như chưa bao quát được phạm vi các dự án sử dụng vốn đầu tư công (chỉ quy định về quản lý, thanh toán vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước); chưa có quy định về quản lý, thanh toán vốn từ nguồn thu hợp pháp của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập dành để đầu tư và quản lý, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư công bố trí cho nhiệm vụ quy hoạch theo quy định của Luật quy hoạch; chưa có chế tài đủ mạnh quy định về tạm ứng, thanh toán đối với các công việc thực hiện không thông qua hợp đồng hoặc thực hiện thông qua hợp đồng của dự án không có cấu phần xây dựng (mới có quy định ở cấp Nghị định của Chính phủ về tạm ứng, thanh toán hợp đồng xây dựng); bị giới hạn hiệu lực, thẩm quyền khi chỉ quy định ở cấp Thông tư của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Như vậy, để đảm bảo cơ sở pháp lý, chế tài đủ mạnh cho công tác quản lý, thanh toán, quyết toán nhiệm vụ, dự án sử dụng vốn đầu tư công, đồng thời thống nhất về thẩm quyền ban hành chế độ, chính sách đối với các hoạt động đầu tư công, việc trình Chính phủ ban hành quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công là cần thiết.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 06 Chương và 56 Điều, trong đó:
- Phạm vi điều chỉnh là quy định chi tiết về quản lý, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư công cho dự án, công trình, nhiệm vụ quy hoạch, nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công. Nghị định này không quy định việc quản lý, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư công để cấp bù lãi suất tín dụng ưu đãi, phí quản lý; cấp vốn điều lệ cho các ngân hàng chính sách, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách; hỗ trợ đầu tư cho các đối tượng chính sách khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn theo quy định của Chính phủ.
- Đối tượng áp dụng là các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoặc có liên quan đến việc quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công trong phạm vi quy định tại Nghị định này.
Một số nội dung tại Nghị định được dư luận quan tâm:
(1) Về mức tạm ứng: quy định mức tạm ứng không vượt quá 30% giá trị hợp đồng, thấp hơn quy định tại Nghị định số 37/2015/NĐ-CP ngày 22/4/2015 của Chính phủ quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng (50% giá trị hợp đồng) để hạn chế rủi ro cho ngân sách nhà nước, giảm số dư tạm ứng tại Kho bạc Nhà nước, đồng thời quản lý chặt chẽ và sử dụng đúng mục đích vốn tạm ứng từ nguồn vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước, gắn việc tạm ứng vốn phải phù hợp với tiến độ thực hiện hợp đồng, khả năng bố trí vốn hàng năm.
(2) Về quản lý, thanh toán vốn từ nguồn thu hợp pháp của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập dành để đầu tư:
- Đối với dự án đầu tư công sử dụng vốn từ nguồn thu hợp pháp của cơ quan nhà nước, việc kiểm soát, thanh toán vốn thực hiện tại Kho bạc Nhà nước như vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước.
- Đối với dự án đầu tư công sử dụng vốn từ nguồn thu hợp pháp của đơn vị sự nghiệp công lập, nhằm tạo chủ động, Nghị định này cho phép các đơn vị sự nghiệp công lập có thể lựa chọn Kho bạc Nhà nước hoặc ngân hàng thương mại làm cơ quan kiểm soát, thanh toán (phù hợp với quy định của Chính phủ về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập).
Ban hành kèm theo Nghị định này Phụ lục các Biểu mẫu về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công, cụ thể: (1) Mẫu số 01/PB -
Phân bổ chi tiết kế hoạch đầu tư công năm …; (2) Mẫu số 01.nn/PB - Phân bổ chi tiết kế hoạch đầu tư công năm ...(áp dụng đối với dự án đầu tư công tại nước ngoài); (3) Mẫu số 02/PB - Phân bổ chi tiết kế hoạch đầu tư công năm ... điều chỉnh; (4) Mẫu số 02.nn/PB - Phân bổ chi tiết kế hoạch đầu tư công năm ... điều chỉnh (áp dụng đối với dự án đầu tư công tại nước ngoài); (5) Mẫu số 03.a/TT - Bảng xác định giá trị khối lượng công việc hoàn thành; (6) Mẫu số 03.b/TT - Bảng kê xác nhận giá trị khối lượng công việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã thực hiện; (7) Mẫu số 03.c/TT - Bảng xác định giá trị khối lượng công việc phát sinh ngoài hợp đồng; (8) Mẫu số 04.a/TT - Giấy đề nghị thanh toán vốn; (9) Mẫu số 04.a.nn/TT - Giấy đề nghị thanh toán vốn của chủ đầu tư (áp dụng đối với dự án đầu tư công tại nước ngoài); (10) Mẫu số 04.b/TT - Giấy đề nghị thu hồi vốn; (11) Mẫu số 04.b.nn/TT - Giấy đề nghị thanh toán vốn của cơ quan chủ quản (áp dụng đối với dự án đầu tư công tại nước ngoài); (12) Mẫu số 05/TT - Giấy rút vốn; (13) Mẫu số 06/TT - Giấy rút vốn kiêm thu ngân sách nhà nước (áp dụng trong trường hợp chi từ tài khoản tạm giữ ngoại tệ); (14) Mẫu số 07/TT - Giấy rút dự toán ngân sách nhà nước bằng ngoại tệ; (15) Mẫu số 08/SDTƯ - Báo cáo tổng hợp tình hình tạm ứng và thu hồi vốn tạm ứng; (16) Mẫu số 09/PPP - Bảng xác định giá trị khối lượng công việc hoàn thành tiểu dự án trong dự án PPP; (17) Mẫu số 10/PPP - Giấy đề nghị thanh toán phần vốn đầu tư công thực hiện tiểu dự án trong dự án PPP; (18) Mẫu số 11/QLDA - Bảng phân bổ chi phí quản lý dự án đề nghị thanh toán hoàn tạm ứng chi phí quản lý dự án; (19) Mẫu số 12/CT - Danh mục các dự án đầu tư công đề nghị cấp vốn.
6. Nghị định số 100/2021/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết: Một trong những căn cứ quan trọng để xây dựng và ban hành Nghị định số 95/2016/NĐ-CP là Luật Xử lý vi phạm hành chính đã được sửa đổi, bổ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc sung bởi hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2020 nên việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2016/NĐ-CP là cần thiết.
- Mục đích: Hoàn thiện các quy định của Nghị định số 95/2016/NĐ-CP liên quan đến các quy định đã được sửa đổi, bổ sung tại Luật sửa đổi , bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính, các quy định pháp luật khác có liên quan nhằm đảm bảo tính nhất quán các quy định của pháp luật. Đáp ứng yêu cầu phát triển và công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực thống kê.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 3 Điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê, cụ thể:
+ Quy định cụ thể các tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê quy định tại khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 4 của Nghị định số 95/2016/NĐ - CP. Quy định hộ kinh doanh, hộ gia đình thực hiện hành vi vi phạm hành chính bị xử phạt như đối với cá nhân vi phạm.
+ Bổ sung quy định về thời hạn thi hành biện pháp khắc phục hậu quả; thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính và trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần, làm căn cứ để tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xác định thời hiệu xử phạt, mức phạt và thời gian thi hành biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Điều 3 của Nghị định số 95/2016/NĐ-CP.
+ Phân chia mức xử phạt đối với hành vi trích dẫn không ghi rõ nguồn thông tin thống kê và hành vi không đúng nguồn thông tin thống kê khi phổ biến, đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc các ấn phẩm quy định tại Điều 13 của Nghị định số 95/2016/NĐ-CP bằng mức phạt cảnh cáo và phạt tiền. Tương tự tại Điều 14 của Nghị định số 95/2016/NĐ-CP phân chia mức xử phạt đối với hành vi để hư hỏng phiếu, biểu điều tra, báo cáo thống kê.
+ Bổ sung quy định về phân định thẩm quyền xử phạt hành chính cho các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử phạt để làm rõ tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử phạt hành vi vi phạm tại các điều, khoản cụ thể của Nghị định 95/2016/ND-CP, giúp việc áp dụng được thuận lợi và chính xác.
+ Sửa đổi thứ tự các mức phạt tại Điều 17 của Nghị định số 95/2016/NĐ-CP theo mức phạt tăng dân.
7. Nghị định số 101/2021/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ và Nghị định số 57/2020/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan và Nghị định số 125/2017/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực từ ngày 30 tháng 12 năm 2021. Mức thuế suất thuế xuất khẩu đối với mặt hàng đá thuộc Chương 25 và Chương 68; mặt hàng clanhke thuộc nhóm 25.23 được thực hiện theo lộ trình quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này. Mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với mặt hàng thịt lợn được thực hiện theo lộ trình quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định này.
Thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với linh kiện ô tô nhập khẩu thuộc nhóm 98.49 quy định tại Điều 7a Nghị định số 57/2020/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định này được áp dụng đến ngày 31 tháng 12 năm 2027. Doanh nghiệp đã đăng ký tham gia Chương trình ưu đãi thuế quy định trước thời điểm Nghị định này có hiệu lực thi hành không phải đăng ký lại Chương trình ưu đãi thuế và được hưởng ưu đãi theo quy định tại Nghị định này. Trường hợp thay đổi, bổ sung nhóm xe, mẫu xe, số lượng mẫu xe đã đăng ký tham gia Chương trình ưu đãi thuế, doanh nghiệp phải thực hiện đăng ký lại với cơ quan hải quan
 Bãi bỏ khoản 3 Điều 4 Nghị định số 122/2016/NĐ-CP.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Thực hiện quy định Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 122/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016; Nghị định số 125/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 và Nghị định số 57/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020 về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. Việc thực hiện các Nghị định này giai đoạn vừa qua về cơ bản đã đạt được các mục tiêu, yêu cầu khi ban hành, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu các mặt hàng trong nước đã sản xuất được; đảm bảo tính đồng bộ của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan hải quan và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, từ đầu năm 2021 đến nay, dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội trong nước; một số ngành như chăn nuôi, xây dựng, chế biến chế tạo đang chịu nhiều tác động tiêu cực do giá cả nguyên liệu đầu vào tăng đột biến. Cụ thể, giá của một số mặt hàng như sắt thép, nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi tăng mạnh đã đặt ra sự cần thiết phải rà soát mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với các mặt hàng này để có sự điều chỉnh phù hợp, qua đó, cùng với các giải pháp chính sách khác góp phần kịp thời giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất, tiêu dùng trong nước. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện các Nghị định nêu trên cũng đã bộc lộ một số điểm bất cập cần được kịp thời rà soát, sửa đổi để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh; thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính và phòng chống gian lận thương mại trong phân loại, áp mã.
Thời gian gần đây, hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản diễn biến phức tạp, nhất là việc xuất khẩu một số loại tài nguyên, khoáng sản thô chưa qua chế biến hoặc chỉ được chế biến ở mức giản đơn có xu hướng tăng mạnh, như mặt hàng đá tự nhiên, các sản phẩm làm từ đá, clanhke. Theo đó, nếu không có các biện pháp quản lý kịp thời, trong đó có biện pháp về thuế xuất khẩu thì sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây cạn kiệt nguồn tài nguyên quốc gia, nhất là các loại khoáng sản không tái tạo cần giữ lại cho sản xuất trong nước.
Trong bối cảnh này, để thực hiện mục tiêu góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; kịp thời hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước, trong đó có ngành công nghiệp ô tô bị ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 và bám sát Nghị quyết số 63/NQ-CP, Nghị quyết số 58/NQ-CP của Chính phủ và các văn bản chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 101/2021/NĐ-CP ngày 15/11/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP và Nghị định số 57/2020/NĐ-CP.
c) Nội dung chủ yếu: Các nội dung được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 101/2021/NĐ-CP tập trung vào 4 nhóm sau:
Thứ nhất, điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN của một số nhóm mặt hàng để góp phần phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát theo yêu cầu của Chính phủ tại Nghị quyết số 63/NQ-CP và Nghị quyết số 58/NQ-CP. Cụ thể, tại Nghị định số 101/2021/NĐ-CP đã điều chỉnh giảm thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với một số mặt hàng như: thép, lúa mỳ, ngô,... Đây là những nhóm mặt hàng có giá cả tăng cao trong giai đoạn vừa qua,  tác động đến chi phí đầu vào của nhiều ngành sản xuất trong nước. Cụ thể, tại Nghị định số 101/2021/NĐ-CP, Chính phủ đã điều chỉnh giảm thuế suất thuế nhập khẩu MFN của một số sản phẩm thép xây dựng, thép tấm với mức giảm thuế suất từ 5% đến 10%; giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN của lúa mì xuống 0% và mặt hàng ngô từ 5% xuống 2% để hỗ trợ cho ngành chăn nuôi trong nước trước sức ép của việc tăng giá nguyên liệu...
Thứ hai, sửa đổi thuế suất thuế xuất khẩu và thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với một số mặt hàng để bảo vệ, thúc đẩy khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên trong nước, hạn chế việc xuất khẩu tài nguyên thô, chưa qua chế biến và góp phần đơn giản biểu thuế, hạn chế gian lận thương mại. Để kịp thời thể chế hóa các chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước trong việc quản lý, khai thác tài nguyên quốc gia, góp phần bảo vệ nguồn tài nguyên khoáng sản trong nước trước việc khai thác xuất khẩu tài nguyên thô đang có xu hướng tăng mạnh, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây cạn kiệt nguồn tài nguyên quốc gia, nhất là các loại khoáng sản không tái tạo, tại Nghị định số 101/2021/NĐ-CP, căn cứ khung thuế suất được Quốc hội quy định tại Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Chính phủ đã điều chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu, thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng tài nguyên khoáng sản như đá, clanhke. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho cho doanh nghiệp có thời gian điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh và xử lý hàng tồn kho, việc điều chỉnh được thực hiện theo lộ trình với mức tăng mỗi lần không quá 5%, cụ thể, điều chỉnh tăng mức thuế suất thuế xuất khẩu đối với các mặt hàng đá tự nhiên từ 15%, 17% lên 30% theo lộ trình 03 giai đoạn từ năm 2022-2024; đối với mặt hàng sản phẩm làm từ đá tăng từ 5% lên 20% theo lộ trình 03 giai đoạn từ năm 2023-2025; tăng thuế xuất khẩu mặt hàng clanhke từ 5% lên 10% bắt đầu từ 01/01/2023;...
Thứ ba, sửa đổi, điều chỉnh một số nội dung của Chương trình ưu đãi thuế để sản xuất, lắp ráp xe ô tô được quy định tại Nghị định số 125/2017/NĐ-CP và Nghị định số 57/2020/NĐ-CP. Chương trình ưu đãi thuế để sản xuất, lắp ráp xe ô tô là Chương trình lần đầu được áp dụng ở Việt Nam, phù hợp với các cam kết quốc tế.
Việc triển khai Chương trình ưu đãi thuế để sản xuất, lắp ráp xe ô tô quy định tại các Nghị định này đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô trong nước đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025; thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô đầu tư mở rộng sản xuất, gia tăng tỷ lệ nội địa hóa và phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) trong nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của ô tô nhập khẩu trong bối cảnh cắt giảm hàng rào thuế quan theo các Hiệp định FTA. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, nhiều lĩnh vực phải ngừng hoạt động trong thời gian dài, trong đó lĩnh vực vận tải, vận chuyển hành khách công cộng gần như đình trệ cùng với thu nhập của người dân giảm sút đã làm cho doanh số bán ra của các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước sụt giảm mạnh, nhất là dòng xe ô tô buýt, minibuýt và xe khách.
Theo đó, để tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, thúc đẩy phát triển ngành CNHT ô tô trong nước, Nghị định số 101/2021/NĐ-CP đã điều chỉnh một số nội dung của Chương trình ưu đãi thuế đối với sản xuất, lắp ráp ô tô, trong đó đã sửa đổi, bổ sung quy định về kỳ xét ưu đãi thuế (Doanh nghiệp được lựa chọn kỳ xét ưu đãi thuế 6 tháng hoặc 12 tháng); điều chỉnh điều kiện về sản lượng để tham gia Chương trình ưu đãi thuế cho phù hợp với bối cảnh mới. Đặc biệt, trên cơ sở các kết quả đạt được từ việc thực hiện Chương trình giai đoạn vừa qua, tại Nghị định số 101/2021/NĐ-CP, Chính phủ đã quyết định kéo dài thời gian thực hiện Chương trình này đến 31/12/2027 để các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô chủ động xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh trong các năm tiếp theo. Qua đó, góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô trong nước phát triển theo định hướng của Đảng và Nhà nước.
Thứ tư, điều chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu, thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với một số mặt hàng nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý, khắc phục các bất cập phát sinh trên thực tiễn. Cụ thể, để khắc phục các bất cập phát sinh trên thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp; thúc đẩy xuất khẩu phát triển, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19; đồng thời để đảm bảo đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo thuận lợi cho người nộp thuế, tại Nghị định số 101/2021/NĐ-CP đã điều chỉnh sửa đổi, một số nội dung tại Nghị định số 57/2020/NĐ-CP như: điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với một số mặt hàng hạt giống dùng để gieo trồng trồng, lốp chuyên dùng cho khai thác than hầm lò, điều chỉnh điều kiện áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu MFN 10% đối với mặt hàng gel làm giảm sẹo .... Cùng với đó, Nghị định đã thực hiện rà soát để quy định mức thuế suất như nhau đối với những mặt hàng đang có mức thuế suất chênh lệch nhưng thiếu các tiêu chí cụ thể để phân loại, áp mã, qua đó góp phần đơn giản hóa biểu thuế, giảm chi phí giám định cho các doanh nghiệp và hướng tới mục tiêu hạn chế gian lận thương mại.
Ban hành kèm theo Nghị định này 02 Phụ lục, cụ thể: (1) Phụ lục I - Biểu thuế xuất khẩu theo danh mục mặt hàng chịu thuế; (2) Phụ lục II - Biểu thuế nhập khẩu theo danh mục mặt hàng chịu thuế.
8. Nghị định số 102/2021/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hóa đơn; hải quan; kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số; quản lý, sử dụng tài sản công; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước; kế toán, kiểm toán độc lập
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Nghị định định được ban hành nhằm triển khai Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính số 67/2020/QH14 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022, thực hiện Quyết định số 126/QĐ-TTg ngày 26/01/2021 về Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 02 Chương và 09 Điều, cụ thể:
- Chương I về nội dung sửa đổi, bổ sung các Nghị định trong lĩnh vực tài chính (từ Điều 1 đến Điều 5 Dự thảo) gồm:
+ Điều 1 sửa đổi, bổ sung Nghị định 125/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn;
+ Điều 2 sửa đổi, bổ sung Nghị định 128/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan;
+ Điều 3 sửa đổi, bổ sung Nghị định 98/2013/NĐ-CP ngày 28/08/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 48/2018/NĐ-CP và Nghị định 80/2019/NĐ-CP);
+ Điều 4 sửa đổi, bổ sung Nghị định 63/2019/NĐ-CP ngày 11/07/2019 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước;
+ Điều 5 sửa đổi, bổ sung Nghị định 41/2018/NĐ-CP ngày 12/03/2018 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập;
+ Điều 6 về bổ sung, bãi bỏ một số từ, cụm từ, bãi bỏ khoản tại một số điều tại các Nghị định.
- Chương II về điều khoản thi hành (từ Điều 7 đến Điều 9 Dự thảo), bao gồm quy định chuyển tiếp, trách nhiệm thực hiện, hiệu lực thi hành.
Nghị định số 102/2021/NĐ-CP quy định các các nội dung sửa đổi cho phù hợp với Luật như:
(1) Bổ sung quy định hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc và hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện trong lĩnh vực hải quan; quản lý, sử dụng tài sản công, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, dự trữ quốc gia và kho bạc nhà nước; kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số;
(2) Bổ sung quy định nguyên tắc xác định mức phạt tiền đối với một số hành vi vi phạm hành chính cụ thể trong trường hợp có tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước; hải quan; lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số;
(3) Bổ sung nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm hành chính nhiều lần trong lĩnh vực hải quan tại Nghị định 128/2020/NĐ-CP (bổ sung Điều 2a sau Điều 2);
(4) Bổ sung quy định thi hành biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực hải quan tại Nghị định 128/2020/NĐ-CP (bổ sung Điều 33a sau Điều 33);
(5) Bổ sung nguyên tắc áp dụng hình thức tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xổ số có thời hạn vào Điều 3 Nghị định 98/2013/NĐ-CP;
(6) Sửa đổi, bổ sung về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các lực lượng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Nghị định 128/2020/NĐ-CP cụ thể là hải quan (Điều 29), Bộ đội Biên phòng (Điều 30), Cảnh sát biển (Điều 30) cho phù hợp với quy định của Luật XLVPHC 2020.
(7) Quy định về miễn, giảm tiền phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan để đảm bảo phù hợp với quy định của Luật XLVPHC 2020.
(8) Quy định cụ thể giá trị bằng tiền của tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền tịch thu của các chức danh có thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực dự trữ nhà nước, quản lý, sử dụng tài sản công tại Nghị định 63/2019/NĐ-CP và lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập tại Nghị định 41/2018/NĐ-CP để đảm bảo phù hợp quy định tại điểm k khoản 73 Điều 1 Luật XLVPHC 2020.
Đồng thời, Nghị định số 102/2021/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung một số nội dung để phù hợp với thực tế triển khai thực hiện và khắc phục vướng mắc như (i) Bổ sung 01 hành vi “Làm mất, cháy, hỏng hóa đơn đã lập nhưng chưa khai thuế” vào điểm c khoản 3 Điều 26 Nghị định 125/2020/NĐ-CP để tránh bỏ sót những vi phạm làm mất, cháy, hỏng hóa đơn (liên giao khách hàng) của người bán nhưng chưa đến kỳ khai thuế hoặc đến kỳ nhưng chưa khai thuế nhằm phù hợp với thực tiễn phát sinh; (ii) Bổ sung hành vi vi phạm hành chính cho, bán hóa đơn đặt in đã phát hành theo hướng sửa đổi, bổ sung tại khoản 2 Điều 22 Nghị định 125/2020/NĐ-CP; (iii) Bổ sung hành vi lập không đầy đủ các nội dung bắt buộc trên hóa đơn theo quy định thành điểm h khoản 4 Điều 24 Nghị định 125/2020/NĐ-CP; (iv) Bổ sung quy định thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực kho bạc nhà nước cho thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành đang thi hành công vụ tại Nghị định 63/2019/NĐ-CP (điểm c Khoản 1 Điều 62); bổ sung hai Điều là Điều 33a, Điều 51a về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số tại Nghị định 98/2013/NĐ-CP.
9. Nghị định số 103/2021/NĐ-CP ngày 26 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ quy định mức thu lệ phí trước bạ đối với ô tô, rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ô tô và các loại xe tương tự ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/12/2021 đến hết ngày 31/5/2022.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Vừa qua, trước tình hình dịch Covid-19 bùng phát lần thứ 4 tiếp tục ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất kinh doanh, để tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước, thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước nối lại chuỗi cung ứng, mở rộng đầu tư sản xuất, lắp ráp ô tô; đồng thời khuyến khích các hãng sản xuất, lắp ráp ô tô lớn của nhiều quốc gia trên thế giới đầu tư, mở rộng dây chuyền sản xuất, lắp ráp ô tô tại Việt Nam, góp phần kích cầu tiêu dùng, trên cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn và qua những tác động tích cực của việc giảm 50% mức thu LPTB năm 2020 đối với xe ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước thì Bộ Tài chính đã phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 103/2021/NĐ-CP ngày 26/11/2021 về quy định mức thu LPTB đối với ô tô, rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ô tôt và các loại xe tương tự xe ô tô sản xuất, lắp rắp trong nước.
Mục đích ban hành:
- Góp phần kích thích tiêu dùng trong nước.
- Góp phần tiếp tục hỗ trợ, giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước trong bối cảnh dịch Covid-19, góp phần thúc đẩy quá trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội sau dịch Covid-19.
- Góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển công nghiệp ô tô trong từng thời kỳ, kích thích thị trường ô tô phát triển.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định số 103/2021/NĐ-CP gồm 2 Điều: Điều 1 quy định mức thu LPTB đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước và Điều 2 quy định về hiệu lực thi hành.
- Phạm vi điều chỉnh: Mức thu LPTB đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước.
- Đối tượng áp dụng: Cơ quan thuế; người nộp lệ phí trước bạ và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan.
- Nội dung quy định, cụ thể:
+ Từ ngày 01 tháng 12 năm 2021 đến hết ngày 31 tháng 5 năm 2022: Mức thu lệ phí trước bạ bằng 50% mức thu quy định tại Nghị định số 20/2019/NĐ-CP ngày 21 tháng 02 năm 2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 140/2016/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2016 của Chính phủ về lệ phí trước bạ; các Nghị quyết hiện hành của Hội đồng nhân dân hoặc Quyết định hiện hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về mức thu lệ phí trước bạ tại địa phương và các văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế (nếu có).
+ Từ ngày 01 tháng 6 năm 2022 trở đi: Mức thu lệ phí trước bạ tiếp tục thực hiện theo quy định tại Nghị định số 20/2019/NĐ-CP ngày 21 tháng 02 năm 2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 140/2016/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 tháng 2016 của Chính phủ về lệ phí trước bạ; các Nghị quyết hiện hành của Hội đồng nhân dân hoặc Quyết định hiện hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về mức thu lệ phí trước bạ tại địa phương và các văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế (nếu có).
10. Quyết định số 33/2021/QĐ-TTg ngày 06 tháng 11 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07 tháng 7 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19
a) Hiệu lực thi hành: Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký ban hành (ngày 06 tháng 11 năm 2021).
Không áp dụng quy định của quyết định này đối với những trường hợp đã được chi trả hỗ trợ hoặc đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt danh sách hỗ trợ nhưng chưa chi trả hỗ trợ theo quy định của Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07 tháng 7 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Kịp thời hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19, góp phần phục hồi sản xuất, giảm thiểu những tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19 trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; ổn định tình hình lao động, việc làm, duy trì mục tiêu vừa phòng, chống dịch, vừa phát triển kinh tế.
c) Nội dung chủ yếu: Quyết định gồm 03 điều với nội dung chính như sau:
- Sửa đổi, bổ sung về điều kiện hưởng về chính sách hỗ trợ đào tạo từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng lao động tiếp cận chính sách.
- Sửa đổi, bổ sung các điều kiện hưởng chính sách tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương, ngừng việc, người lao động chấm dứt hợp đồng lao động không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp theo hướng nới lỏng các điều kiện cho người lao động, người sử dụng lao động để đảm bảo tính khả thi và phù hợp với tình hình mới "thích ứng linh hoạt" (bao gồm cả người lao động phải điều trị COVID-19, cách ly y tế, trong các khu vực bị phong toả; do người sử dụng lao động bị tạm dừng hoạt động toàn bộ hoặc một phần; có trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc địa điểm sản xuất kinh doanh trên địa bàn thực hiện chỉ thị 16/CT-TTg; bố trí lại sản xuất lao động; áp dụng các biện pháp không hoạt động/ngừng hoạt động/hoạt động hạn chế/hoạt động có điều kiện/hoạt động hạn chế, có điều kiện theo quy định tại Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ ban hành Quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19).
- Bãi bỏ điều kiện Bản sao văn bản yêu cầu cách ly của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phòng, chống dịch COVID-19 trong thời gian từ ngày 01 tháng 5 năm 2021 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2021 đối với chính sách hỗ trợ lao động ngừng việc.
- Lược bỏ hết các yêu cầu bản sao có chứng thực hoặc bản sao kèm theo bản chính để đối chiếu (chỉ cần bản sao) trong tất cả các chính sách.
- Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan tới chính sách và hồ sơ hỗ trợ cho F0, F1, trong đó có bổ sung quy định về F0 điều trị tại nhà. Đồng thời, đơn giản hoá thành phần hồ sơ như đối với trường hợp mất hoặc không mang theo các giấy tờ tuỳ thân thì thay thế bằng giấy cam kết chịu trách nhiệm về thông tin của F0, F1.
- Sửa đổi điều kiện đối với hướng dẫn viên du lịch để hỗ trợ cho hướng dẫn viên du lịch tại điểm, do trước kia là quy định chung thành phần hồ sơ cùng với hướng dẫn viên du lịch quốc tế và nội địa.
- Bổ sung Điều 37a vào sau Điều 37 quy định việc hỗ trợ đối với hộ kinh doanh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, kinh doanh thời vụ, làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký hộ kinh doanh, giao Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định về đối tượng được hỗ trợ; hồ sơ, thủ tục hỗ trợ trên các nguyên tắc được quy định trong Quyết định số 33/2021/QĐ-TTg.
- Sửa đổi, bổ sung các trường hợp người sử dụng lao động được vay vốn từ Ngân hàng Chính sách, theo hướng nới lỏng một số điều kiện và phù hợp với tình hình mới là thích ứng linh hoạt theo Nghị quyết 128/NQ-CP; bãi bỏ về điều kiện phải có Bản sao thông báo quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2020 của cơ quan thuế đối với chính sách cho vay vốn trả lương từ Ngân hàng Chính sách.
Ban hành kèm theo Quyết định này Phụ lục các Biểu mẫu về sửa đổi, bổ sung một số mẫu tại phụ lục của Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg, cụ thể: (1) Mẫu số 02 - Phương án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề và duy trì việc làm cho người lao động; (2) Mẫu số 02a - Danh sách người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp đề nghị xác nhận để tham gia đào tạo; (3) Mẫu số 07 - Đề nghị hỗ trợ (Dành cho người lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp); (4) Mẫu số 08b - Danh sách trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi thuộc diện F0, F1 được hỗ trợ; (5) Mẫu số 08c - Danh sách F0, F1, trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi nhận hỗ trợ; (6) Mẫu số 11 - Đề nghị hỗ trợ (Dành cho hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh và có trong danh bạ của cơ quan thuế); (7) Mẫu số 12a - Đề nghị vay vốn để trả lương ngừng việc cho người lao động; (8) Mẫu số 12b - Đề nghị vay vốn để trả lương phục hồi sản xuất (Áp dụng đối với người sử dụng lao động phải tạm dừng hoạt động hoặc có trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg hoặc áp dụng các biện pháp theo quy định tại Nghị quyết 128/NQ-CP); (10) Mẫu số 12c - Đề nghị vay vốn để trả lương phục hồi sản xuất (Áp dụng đối với người sử dụng lao động hoạt động trong lĩnh vực vận tải, hàng không, du lịch, dịch vụ lưu trú và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng).
11. Quyết định số 34/2021/QĐ-TTg ngày 08 tháng 11 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định về định danh và xác thực điện tử trên nền tảng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước công dân và Cơ sở dữ liệu quốc gia về xuất nhập cảnh
a) Hiệu lực thi hành: Quyết định này có hiệu lực từ ngày 09 tháng 11 năm 2021.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Cơ sở thực tiễn:
Hiện nay tình hình dịch bệnh Covid-19 trên thế giới và Việt Nam đang diễn biến phức tạp, tác động rất lớn đến mọi mặt đời sống của xã hội. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 nói riêng là rất cấp thiết. Trong thời gian qua, với nền tảng sẵn có của hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu quốc gia về xuất nhập cảnh, hệ thống Căn cước công dân, Bộ Công an đã nghiên cứu, triển khai nhiều giải pháp, ứng dụng công nghệ số để định danh, xác thực chính xác thông tin cá nhân góp phần phòng, chống dịch Covid-19 (như phục vụ công tác quản lý di, biến động của dân cư, khai báo y tế, cấp giấy đi đường, truy vết thông tin tiếp xúc của người mắc bệnh, đăng ký tiêm chủng, đăng ký, hỗ trợ an sinh xã hội đối với người nghèo theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19…). Tuy nhiên, hiện nay việc định danh và xác thực điện tử thông tin của cá nhân vẫn chưa được áp dụng rộng rãi, hầu hết các ứng dụng phòng, chống dịch đều thực hiện xác thực thông tin tài khoản của cá nhân từ các nguồn thông tin khác nhau, không có kiểm chứng, xác thực nên khó bảo đảm tính chính xác, đồng nhất, phải phụ thuộc nhiều vào tính tự giác, trung thực trong khai báo của cá nhân.
Bên cạnh đó, việc ứng dụng định danh và xác thực điện tử đối với cá nhân còn đáp ứng yêu cầu quản lý đối với giao dịch điện tử trên môi trường mạng nhằm hạn chế hoạt động lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín gây mất an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Mặt khác, việc giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường điện tử hiện nay cũng chưa có cơ chế để định danh, xác thực thông tin người dùng bảo đảm tính chính xác, đồng nhất, có kiểm chứng. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả cung cấp và sử dụng dịch vụ hành chính công trực tuyến.
Do vậy, cần thiết phải hoàn thiện ngay cơ sở pháp lý về định danh và xác thực điện tử với mô hình tập trung, thống nhất; chỉ cung cấp một định danh gốc, danh tính điện tử duy nhất đối với cá nhân và thực hiện hoạt động kết nối, chia sẻ thông tin giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu quốc gia và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành.
- Căn cứ pháp lý:
Luật Đầu tư ngày 17 tháng 6 năm 2020 quy định dịch vụ Định danh và xác thực điện tử là ngành nghề kinh doanh có điều kiện tại số thứ tự 131, phụ lục 4 Danh mục Ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
Ngày 15/4/2015, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW. Theo đó, Chính phủ giao các nhiệm vụ cụ thể xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về ứng dụng, phát triển CNTT tạo hành lang pháp lý cho các dịch vụ CNTT, trong đó đẩy mạnh việc sử dụng chứng thực chữ ký số và xác thực điện tử, bảo mật thông tin trong cơ quan nhà nước và tổ chức, doanh nghiệp.
Để nâng cao hiệu quả trong giải quyết thủ tục hành chính, ngày 23/4/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 61/2018/NĐ-CP về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính. Theo đó, Cổng Dịch vụ công quốc gia là hợp phần giúp hỗ trợ việc kết nối, xác thực danh tính điện tử, cho phép tổ chức, cá nhân đăng ký tài khoản sử dụng; cung cấp chức năng đăng nhập một lần (Single-Sign-On) và các cơ chế xác thực người dùng để thực hiện các thủ tục hành chính. Đồng thời, yêu cầu đối với Cổng Dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh hỗ trợ xác thực thông tin công dân, doanh nghiệp thông qua việc kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và các cơ sở dữ liệu khác liên quan.
Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 08/04/2021 quy định về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử. Trong đó, tại khoản 1 Điều 7 quy định: Việc đăng ký tài khoản thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử được thực hiện tại Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng dịch vụ công cấp bộ, cấp tỉnh hoặc sử dụng danh tính điện tử do các tổ chức cung cấp định danh điện tử đã kết nối, tích hợp với Nền tảng trao đổi định danh điện tử trên Cổng dịch vụ công quốc gia.
Ngày 16/6/2021, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 4011/VPCP-KSTT thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông xây dựng Hệ thống định danh và xác thực điện tử; Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ giao Bộ Công an xây dựng Hệ thống định danh và xác thực điện tử.
Ngày 12/9/2021, Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Thông báo số 241/TB-VPCP ngày 12/9/2021 trong đó giao Bộ Công an chủ trì: “Xây dựng Nghị định về định danh và xác thực điện tử, trước mắt để có cơ sở pháp lý triển khai trên toàn quốc tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về định danh và xác thực điện tử; Quyết định về cung cấp dữ liệu cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư khi kết nối, chia sẻ…”.
- Mục đích ban hành:
+ Tạo cơ sở pháp lý cho việc đăng ký, quản lý định danh và xác thực điện tử của cá nhân trên nền tảng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước công dân, Cơ sở dữ liệu quốc gia về xuất nhập cảnh; tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân khi tham gia giao dịch điện tử, góp phần đảm bảo an ninh, an toàn thông tin.
+ Khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quá trình triển khai ứng dụng công nghệ thông tin thời gian qua; hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về chuyển đổi số hoạt động của cơ quan nhà nước hướng tới phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; cung cấp các dịch vụ công, dịch vụ thương mại điện tử, giao dịch điện tử.
c) Nội dung chủ yếu: Quyết định gồm 06 chương, 19 điều:
Chương I (Quy định chung) gồm 03 điều quy định về: Phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ và nguyên tắc thực hiện.
Chương II (Danh tính điện tử, mức độ của tài khoản định danh điện tử) gồm 02 điều quy định về: Danh tính điện tử; mức độ của tài khoản định danh điện tử.
Chương III (Đăng ký, kích hoạt tài khoản định danh điện tử) gồm 02 điều quy định về: Đăng ký tài khoản định danh điện tử; kích hoạt tài khoản định danh điện tử.
Chương IV (Quản lý, sử dụng tài khoản định danh điện tử) gồm 04 điều quy định về: Sử dụng tài khoản định danh điện tử; cập nhật danh tính điện tử; khóa tài khoản định danh điện tử; khôi phục tài khoản định danh điện tử đã khóa.
Chương V (Quyền, nghĩa vụ của bên sử dụng và trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) gồm 05 điều quy định về: Quyền và nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ; trách nhiệm của Bộ Công an; trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông; trách nhiệm của Bộ Quốc phòng; trách nhiệm của các bộ khác, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Chương VI (Điều khoản thi hành) gồm 03 điều quy định về: Hiệu lực thi hành; điều khoản chuyển tiếp; trách nhiệm thi hành.
- Nội dung cơ bản
+ Phạm vi điều chỉnh: Quyết định này quy định về định danh và xác thực điện tử đối với công dân Việt Nam và người nước ngoài tại Việt Nam trên nền tảng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước công dân và Cơ sở dữ liệu quốc gia về xuất nhập cảnh; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
+ Giải thích từ ngữ: Dự thảo Quyết định quy định giải thích đối với các thuật ngữ về danh tính điện tử, chủ thể danh tính điện tử, định danh điện tử, xác thực điện tử, ứng dụng định danh điện tử, hệ thống định danh và xác thực điện tử, tài khoản định danh điện tử, bên sử dụng dịch vụ.
+ Việc thực hiện Quyết định này được thực hiện dựa trên những nguyên tắc sau: Cá nhân, tổ chức được khai thác và sử dụng danh tính điện tử phải tuân thủ quyền riêng tư, bảo vệ dữ liệu cá nhân và bảo mật thông tin tài khoản định danh điện tử của cá nhân; việc đăng ký, sử dụng, cung cấp, quản lý danh tính điện tử, tài khoản định danh điện tử phải bảo đảm chính xác, an toàn, bảo mật; tài khoản định danh điện tử Mức độ 2 có giá trị sử dụng tương đương thẻ Căn cước công dân, hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế do bên sử dụng dịch vụ quyết định; định danh và xác thực điện tử là dịch vụ cung cấp để phục vụ các tiện ích của cá nhân; tài khoản định danh điện tử có giá trị sử dụng tương đương thẻ Căn cước công dân, hộ chiếu hoặc giấy tờ khác được quy định tại khoản 2 Điều 5 Quyết định này; định danh và xác thực điện tử là dịch vụ cung cấp để phục vụ các tiện ích của cá nhân.
+ Danh tính điện tử: Quy định rõ danh tính điện tử đối với công dân Việt Nam và danh tính điện tử đối với người nước ngoài.
+ Mức độ của tài khoản định danh điện tử: dự thảo Quyết định quy định tài khoản định danh điện tử có 02 mức độ:
Mức độ 1: Tài khoản được tạo lập trong trường hợp thông tin của công dân kê khai đã được so sánh, đối chiếu tự động trùng khớp với thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Tài khoản được tạo lập trong trường hợp thông tin của người nước ngoài đã được đối sánh trùng khớp với thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về xuất nhập cảnh, trừ ảnh chân dung và vân tay;
Mức độ 2: Tài khoản được tạo lập trong trường hợp thông tin của cá nhân kê khai đã được xác minh bằng ảnh chân dung hoặc vân tay trùng khớp với thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước công dân hoặc Cơ sở dữ liệu quốc gia về xuất nhập cảnh.
Việc lựa chọn sử dụng mức độ của của tài khoản định danh điện tử do bên sử dụng dịch vụ quyết định.
+ Đăng ký tài khoản định danh điện tử:
Dự thảo Quyết định quy định cá nhân từ đủ 14 tuổi trở lên đăng ký tài khoản định danh điện tử thông qua ứng dụng định danh số; đối với cá nhân chưa đủ 14 tuổi thì đăng ký theo tài khoản định danh điện tử của cha, mẹ hoặc người giám hộ; đối với người hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự thì đăng ký theo tài khoản định danh điện tử của người giám hộ.
Các thông tin cần khai báo được hiển thị trên thiết bị điện tử khi cá nhân đăng ký tài khoản định danh điện tử, gồm: Số định danh cá nhân; số hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế (đối với người nước ngoài); họ, tên đệm và tên; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; quốc tịch (đối với người nước ngoài); số điện thoại và email. Nếu đăng ký cho người chưa đủ 14 tuổi, người hạn chế năng lực hành vi dân sự, người mất năng lực hành vi dân sự thì kê khai thêm thông tin của người đó.
+ Kích hoạt tài khoản định danh điện tử:
Dự thảo Quyết định quy định về kích hoạt tài khoản định danh điện tử theo hướng công dân Việt Nam, người nước ngoài đăng ký tài khoản định danh điện tử, Hệ thống định danh và xác thực điện tử so sánh, đối chiếu tự động thông tin công dân, người nước ngoài đã kê khai với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu quốc gia về xuất nhập cảnh nếu trùng khớp thì tạo lập tài khoản định danh điện tử Mức độ 1 và gửi yêu cầu kích hoạt tài khoản cho người đăng ký để thực hiện việc kích hoạt. Trường hợp kích hoạt tài khoản Mức độ 2 thì so sánh, đối chiếu thêm ảnh chân dung hoặc vân tay của người đăng ký.
+ Sử dụng tài khoản:
Việc tạo lập tài khoản cá nhân để thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử phải sử dụng danh tính điện tử do Bộ Công an cung cấp. Việc sử dụng tài khoản định danh điện tử được tạo lập bởi Hệ thống định danh và xác thực điện tử của Bộ Công an để thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử do cơ quan quản lý Cổng dịch vụ Công quyết định.
Việc sử dụng tài khoản định danh điện tử, xác thực điện tử để thực hiện hoạt động không thuộc trường hợp thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử thì do tổ chức, cá nhân lựa chọn sử dụng.
+ Cập nhật danh tính điện tử
Khi có thay đổi thông tin danh tính điện tử thì cá nhân là công dân Việt Nam có tài khoản định danh điện tử thực hiện việc điều chỉnh thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước công dân; đối với người nước ngoài có tài khoản định danh điện tử thực hiện việc điều chỉnh thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về xuất nhập cảnh theo quy định pháp luật có liên quan.
Hệ thống định danh và xác thực điện tử cập nhật, đồng bộ thông tin về danh tính điện tử từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước công dân và Cơ sở dữ liệu quốc gia về xuất nhập cảnh.
+ Khóa tài khoản định danh điện tử
Dự thảo Quyết định quy định cụ thể về các trường hợp bị khóa tài khoản định danh điện tử gồm: Khi chủ thể danh tính điện tử yêu cầu khóa tài khoản định danh điện tử của mình; khi có yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan chức năng có thẩm quyền hoặc bên sử dụng dịch vụ; khi chủ thể danh tính điện tử vi phạm điều khoản dịch vụ đã thỏa thuận với cơ quan cấp tài khoản định danh điện tử; khi thực hiện xác lập lại hoặc hủy số định danh cá nhân; khi chủ thể danh tính điện tử chết.
+ Khôi phục tài khoản định danh điện tử
Dự thảo Quyết định quy định cụ thể về các trường hợp được khôi phục tài khoản định danh điện tử gồm: Khi chủ thể của danh tính điện tử có yêu cầu khôi phục tài khoản định danh điện tử; khi có yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan chức năng có thẩm quyền hoặc bên sử dụng dịch vụ; khi chủ thể của danh tính điện tử đã khắc phục vi phạm điều khoản thỏa thuận sử dụng dịch vụ và có yêu cầu khôi phục tài khoản định danh điện tử.
+ Quyền và nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ và trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Dự thảo Quyết định quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ; trách nhiện của Bộ Công an; trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông; trách nhiệm của Bộ Quốc phòng; trách nhiệm của các bộ khác, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
+ Điều khoản thi hành: Dự thảo Quyết định quy định về hiệu lực thi hành; điều khoản chuyền tiếp và trách nhiệm thi hành.
12. Quyết định số 35/2021/QĐ-TTg ngày 24 tháng 11 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ một số văn bản quy pham pháp luật của Thủ tướng Chính phủ
a) Hiệu lực thi hành: Quyết định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 12 năm 2021.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Quyết định được ban hành nhằm thực hiện Nghị quyết số 23/NQ-CP ngày 08/4/2018 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 năm 2018, trong đó Chính phủ giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để chấm dứt hiệu lực các văn bản do Thủ tướng Chính phủ ban hành không còn được áp dụng trên thực tế nhưng chưa có văn bản xác định hết hiệu lực.
c) Nội dung chủ yếu: Quyết định gồm 02 Điều bãi bỏ một số văn bản quy pham pháp luật của Thủ tướng Chính phủ, cụ thể: (1) Bãi bỏ toàn bộ một số văn bản quy phạm pháp luật của Thủ tướng Chính phủ: Quy định việc bãi bỏ toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật của Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trước đây; (2) Điều khoản thi hành.
Trên đây là Thông cáo báo chí văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 11 năm 2021, Bộ Tư pháp xin thông báo./.