I. KẾT QUẢ CÔNG TÁC CHỦ YẾU TRONG QUÝ III NĂM 2013
Trong Quý III/2013, Bộ, Ngành Tư pháp đã triển khai toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm các mặt công tác bám sát chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và ý kiến kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị toàn quốc triển khai công tác tư pháp năm 2013, góp phần phục vụ đắc lực các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ. Một số kết quả chủ yếu đã đạt được như sau:
Bộ Tư pháp đã hoàn chỉnh Báo cáo đề xuất của Chính phủ về việc sửa đổi Chương IX (Chính quyền địa phương) trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, phối hợp với Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp hoàn chỉnh Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 6.
Công tác xây dựng pháp luật tiếp tục được quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện mạnh mẽ và có hiệu quả, bám sát hơn yêu cầu chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, cả nước, chú trọng những lĩnh vực kinh tế - xã hội có nhiều bức xúc.
Trong công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), đồng thời với việc chú trọng tính khả thi, hợp pháp, hợp lý của dự thảo văn bản, công tác này đã được gắn kết chặt chẽ hơn với công tác kiểm soát thủ tục hành chính và đổi mới quy trình, cách thức để nâng cao chất lượng thẩm định. Trong quý III năm 2013, Bộ Tư pháp đã thẩm định 73 VBQPPL (trong đó có 18 điều ước quốc tế). Đặc biệt, Bộ Tư pháp đã tập trung nguồn lực thẩm định các VBQPPL cụ thể hóa các giải pháp đã được nêu trong các Nghị quyết số 01/NQ-CP, số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ.
Công tác kiểm tra VBQPPL được các bộ, ngành, địa phương tăng cường thực hiện thường xuyên hơn và không ngừng được nâng cao chất lượng, hiệu quả; bước đầu kết hợp việc kiểm tra văn bản với công tác theo dõi thi hành pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính. Trong Quý III/2013, Bộ Tư pháp đã tiếp nhận 1.075 văn bản (Bộ, ngành có 122 văn bản; địa phương có 953 văn bản); Tổ chức kiểm tra 527 văn bản (Bộ, ngành có 182 văn bản, địa phương có 345 văn bản), bước đầu phát hiện 104 văn bản có dấu hiệu vi phạm các quy định tại Điều 3 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP (trong đó có 19 văn bản của cấp Bộ, 85 văn bản của địa phương), cụ thể: về nội dung, hiệu lực văn bản: 74 văn bản; về căn cứ pháp lý và thể thức trình bày văn bản: 123 văn bản.
Để triển khai Ngày Pháp luật theo quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 6902/BTP-PBGDPL ngày 25/9/2013 hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện Ngày Pháp luật; tiếp tục hoàn thiện dự thảo Kế hoạch tổ chức thực hiện Ngày Pháp luật và dự thảo Kế hoạch tổ chức Lễ công bố Ngày Pháp luật (dự kiến vào ngày 09/11/2013).
Công tác kiểm soát thủ tục hành chính được các bộ, ngành, địa phương tiếp tục quan tâm kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ theo Nghị định số 48/2013/NĐ-CP ngày 14/5/2013 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến kiểm soát thủ tục hành chính. Tính đến ngày 30/9/2013, có 17/23 Bộ ngành và 58/63 địa phương đã thực hiện chuyển giao nhiệm vụ, tổ chức bộ máy làm công tác kiểm soát TTHC (Phòng Kiểm soát TTHC) từ Văn phòng Bộ, ngành, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sang Tổ chức pháp chế, Sở Tư pháp. Các Bộ, ngành chưa chuyển giao như: Khoa học và Công nghệ, Thông tin và Truyền thông, Xây dựng và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; các địa phương chưa chuyển giao gồm: Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Ninh, Quảng Trị và Yên Bái. Số lượng công chức đang làm công tác kiểm soát TTHC tại Bộ ngành là 79 biên chế, tại địa phương là 193 biên chế (trên cả nước còn thiếu 158 biên chế (trong đó Bộ, ngành thiếu 36, địa phương thiếu 122 biên chế). Một số rất ít Bộ, ngành, địa phương đã bố trí đủ biên chế làm công tác kiểm soát TTHC (Bộ Giao thông vận tải, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; các địa phương như: Bình Dương, Lâm Đồng, Thanh Hóa…).
II. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI MỘT SỐ NỘI DUNG CÔNG TÁC CỤ THỂ
1. Tổ chức ngày Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
1.1. Mục đích, ý nghĩa của Ngày Pháp luật
Việc Quốc hội khóa XIII ban hành Luật phổ biến, giáo dục pháp luật thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta trong việc tiếp tục tăng cường, đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao dân trí pháp lý, ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân. Theo quy định của Luật, ngày 09/11 hàng năm (ngày ban hành đạo luật cơ bản đầu tiên là Hiến pháp năm 1946) là Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày Pháp luật được tổ chức nhằm tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo dục ý thức thượng tôn pháp luật cho mọi người trong xã hội, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng dân cư, nhắc nhở, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật.
Các nội dung cụ thể của Ngày pháp luật, cách thức tổ chức và trách nhiệm tổ chức Ngày Pháp luật đã được quy định cụ thể tại Nghị định số 28/2013/NĐ-CP ngày 04/4/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật phổ biến, giáo dục pháp luật. Hàng năm, Bộ Tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn nội dung, hình thức tổ chức Ngày Pháp luật trong phạm vi cả nước.
1.2. Việc tổ chức thực hiện Ngày Pháp luật năm 2013
Năm 2013 là năm diễn ra sự kiện rất quan trọng trong đời sống chính trị - pháp lý của đất nước, đó là việc toàn dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, đồng thời là năm Chính phủ tổ chức Lễ công bố Ngày Pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc tổ chức Ngày Pháp luật năm 2013 là đợt sinh hoạt chính trị - pháp lý sâu rộng nhằm phát huy ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân trong thực hành “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.
Chủ đề của Ngày Pháp luật năm 2013 là “Toàn dân xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thể hiện tinh thần “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” trong đạo luật cơ bản của Nhà nước ta.
Để thực hiện Ngày Pháp luật năm nay, Bộ Tư pháp đã hướng dẫn các bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương và các địa phương về nội dung, cách thức, biện pháp tổ chức triển khai thực hiện với phương châm đảm bảo thiết thực, tiết kiệm, hiệu quả, tránh lãng phí và hình thức; bảo đảm sự thống nhất trên phạm vi toàn quốc, đồng thời có tính linh hoạt, sáng tạo để phù hợp với đặc điểm, tình hình, điều kiện cụ thể của từng cơ quan, đơn vị, địa phương, tập trung là triển khai thực hiện tuần lễ cao điểm thực hiện Ngày Pháp luật từ ngày 04/11 đến ngày 09/11/2013.
Hiện nay, Bộ Tư pháp đang khẩn trương chuẩn bị nội dung, kế hoạch để tổ chức Lễ công bố ngày pháp luật của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào ngày 9/11/2013.
2. Xây dựng các báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 6
Thực hiện phân công của Chính phủ, Bộ Tư pháp được giao xây dựng 07 báo cáo của Chính phủ, bao gồm: (1) Báo cáo tình hình triển khai, thi hành luật, pháp lệnh và ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh của Quốc hội, UBTV Quốc hội được ban hành từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đến hết tháng 7 năm 2013; (2) Báo cáo công tác thi hành án năm 2013; (3) Báo cáo công tác bồi thường nhà nước năm 2013; (4) Báo cáo về một số hoạt động bổ trợ tư pháp năm 2013; (5) Báo cáo hoạt động tương trợ tư pháp năm 2013; (6) Báo cáo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công chứng; (7) Báo cáo dự án Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình.
Bộ Tư pháp xin thông tin nội dung cơ bản của một số báo cáo, cụ thể như sau:
2.1. Báo cáo tình hình triển khai thi hành luật, pháp lệnh, ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội được ban hành từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đến hết tháng 7/2013
Tính đến hết tháng 7/2013, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIII đã thông qua 46 văn bản (trong đó Chính phủ trình 44 văn bản). Đến ngày 15/10/2013, có 37/46 luật, pháp lệnh đã có hiệu lực; 09 luật, pháp lệnh chuẩn bị có hiệu lực trong năm 2014 ( như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cư trú; Luật Giáo dục quốc phòng - an ninh; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng; Luật Hòa giải cơ sở…) Nhìn chung, cùng với quá trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992, trong hai năm đầu nhiệm kỳ của Quốc hội khóa XIII, các luật, pháp lệnh được ban hành đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội, với trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, một trong ba đột phá chiến lược.
- Về công tác chỉ đạo, điều hành tổ chức triển khai thi hành luật, pháp lệnh: Để đảm bảo gắn kết giữa công tác xây dựng và thi hành pháp luật, thống nhất đầu mối giúp Chính phủ theo dõi, đôn đốc việc triển khai thi hành luật, pháp lệnh và tăng cường nguồn lực thực hiện nhiệm vụ xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, Chính phủ đã ban hành các nghị định về công tác pháp chế, theo dõi tình hình thi hành pháp luật và kiểm soát thủ tục hành chính, đồng thời quyết định chuyển trách nhiệm theo dõi tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh và nhiệm vụ, tổ chức làm công tác kiểm soát thủ tục hành chính từ Văn phòng Chính phủ sang Bộ Tư pháp.
Từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đến nay, hàng tháng, quý, 6 tháng và hằng năm, tại các phiên họp, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đều xem xét báo cáo về công tác xây dựng và thi hành pháp luật, trong đó rất chú trọng tình hình triển khai thi hành luật, pháp lệnh và tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh để kịp thời chỉ đạo xử lý. Điểm đáng chú ý là trong công tác triển khai thi hành luật, pháp lệnh là sau khi luật, pháp lệnh được ban hành, các Bộ, ngành, địa phương đã chỉ đạo việc thống kê các thủ tục hành chính được quy định trong luật, pháp lệnh để công khai trên cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính và Cổng thông tin điện tử của Bộ, ngành, địa phương.
- Về công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh:
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, hằng năm Chính phủ đều tổ chức 02 phiên họp chuyên đề về công tác xây dựng pháp luật, trong đó chú trọng thảo luận về trách nhiệm, các biện pháp đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng công tác này nhằm khắc phục tình trạng nợ đọng văn bản.
Đối với luật, pháp lệnh điều chỉnh những lĩnh vực phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, cần phải ban hành số lượng lớn văn bản quy định chi tiết (như trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành hành chính), để đảm bảo chất lượng và tính thống nhất, đồng bộ và tính khả thi của các nghị định, Chính phủ đã thành lập Hội đồng tư vấn thẩm định để thẩm định tất cả nghị định. Đây được coi là một trong những giải pháp đột phá trong công tác theo dõi, đôn đốc, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật nói chung, các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh nói riêng.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã chủ trì phối hợp với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ xây dựng kế hoạch thực hiện Kết luận của Ủy ban thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 20, trong đó tập trung giải quyết tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh thuộc lĩnh vực phụ trách, bảo đảm đến hết năm 2013 cơ bản hoàn thành việc ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh đã được ban hành từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đến nay; đồng thời yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ tập trung giải quyết dứt điểm các văn bản còn nợ đối với luật, pháp lệnh có hiệu lực từ 01/7/2013 trở về trước.
Đối với 37 luật, pháp lệnh đã có hiệu lực, hiện nay Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đã ban hành 98/200 (49%) văn bản quy định chi tiết hướng dẫn. Số văn bản chưa được ban hành là 102/200 (51%) văn bản (trong đó có 58 văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và 44 văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ).
Đối với 09 luật, pháp lệnh chuẩn bị có hiệu lực, có 01/42 văn bản quy định chi tiết đã được ban hành (đó là Nghị định số 92/2013/NĐ-CP ngày 13/8/2013 quy định chi tiết một số điều có hiệu lực từ ngày 01/7/2013 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng)
2.2. Báo cáo Công tác thi hành án năm 2013
Công tác thi hành án dân sự là 1 trong 10 nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp năm 2013. Trên cơ sở chỉ tiêu, nhiệm vụ được Quốc hội giao và nhiệm vụ trọng tâm đã được xác định trong Báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội về công tác thi hành án năm 2012, Bộ Tư pháp với chức năng quản lý nhà nước về thi hành án dân sự và thi hành án hành chính đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương khắc phục khó khăn, chỉ đạo các cơ quan thi hành án dân sự triển khai đồng bộ các giải pháp để thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án dân sự theo Nghị quyết số 37/2012/QH13 của Quốc hội khóa XIII. Năm 2013, mặc dù chưa hoàn thành chỉ tiêu thi hành án về việc và về tiền (tính theo tỷ lệ %), nhưng về giá trị tuyệt đối, đã giải quyết xong số việc và tiền nhiều hơn năm 2012.
- Kết quả thi hành: Năm 2013, tổng số việc phải giải quyết là 732.179 việc (trong đó, các cơ quan Thi hành án dân sự phải giải quyết 731.393 việc, các cơ quan Thi hành án trong Quân đội phải giải quyết 786 việc), tăng 89.294 việc so với năm 2012. Trong đó có: 569.693 việc có điều kiện giải quyết, tăng 123.438 việc so với năm 2012; 162.486 việc chưa có điều kiện giải quyết (chiếm tỷ lệ 22,19%). Toàn Ngành đã giải quyết xong 492.975 việc, đạt tỷ lệ 86,53%. So với năm 2012, tăng 97.691 việc (24,71%), nhưng giảm 2,05% về tỷ lệ.
Về tiền, tổng số tiền phải giải quyết là 70.562 tỷ 600 triệu 894 nghìn đồng (trong đó, các cơ quan Thi hành án dân sự phải giải quyết 70.494 tỷ 290 triệu 569 nghìn đồng, các cơ quan Thi hành án trong Quân đội phải giải quyết 68 tỷ 310 triệu 325 nghìn đồng), tăng 27.342 tỷ 967 triệu 831 nghìn đồng (63,27%) so với năm 2012. Trong đó có: 39.584 tỷ 914 triệu 60 nghìn đồng có điều kiện giải quyết, tăng 26.147 tỷ 335 triệu 337 nghìn đồng (194,58%) so với năm 2012; 30.977 tỷ 683 triệu 28 nghìn đồng chưa có điều kiện giải quyết (chiếm tỷ lệ 43,90%). Toàn Ngành đã giải quyết xong 28.965 tỷ 5 triệu 600 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 73,17%. So với năm 2012, tăng 18.620 tỷ 438 triệu 46 nghìn đồng (180%), nhưng giảm 3,81% về tỷ lệ.
Đối với các khoản thu cho ngân sách nhà nước, đã giải quyết được 373.518 việc, tương ứng với số tiền 2.283 tỷ 77 triệu 413 nghìn đồng (đạt 70,5% về việc và 41% về tiền so với số phải thi hành loại này).
Số việc phải tổ chức cưỡng chế thi hành là 10.096 trường hợp (tăng 1.151 trường hợp so với năm 2012), trong đó, có 7.047 cuộc cưỡng chế có huy động lực lượng liên ngành. Nhìn chung, hầu hết các vụ việc tổ chức cưỡng chế bảo đảm đúng trình tự, thủ tục và thành công, không có vụ việc nào để xảy ra hậu quả đáng tiếc.
- Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự:
Công tác tiếp công dân, xử lý đơn, thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự tiếp tục được chú trọng, chỉ đạo thực hiện tốt; trong đó tập trung chỉ đạo rà soát các vụ việc phức tạp, kéo dài để có biện pháp chỉ đạo giải quyết phù hợp, bảo đảm đúng quy định pháp luật. Năm 2013, Bộ Tư pháp và các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương đã tiếp hàng nghìn lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo, phản ánh nội dung liên quan đến việc thi hành án dân sự (riêng Bộ Tư pháp tiếp hơn 1.000 lượt, tương đương năm 2012).
Tổng số đơn, thư khiếu nại tố cáo toàn Ngành đã tiếp nhận là 9.622 đơn với 7.321 việc, tăng 2.109 đơn (28,07%) so với năm 2012. Đơn, thư thuộc thẩm quyền giải quyết, đã được phân loại, nghiên cứu giải quyết theo đúng quy định pháp luật; đối với đơn, thư không thuộc thẩm quyền, đã kịp thời chuyển đến các cơ quan khác giải quyết theo thẩm quyền. Đã giải quyết 7.145/7.321 việc (6.728 việc khiếu nại và 417 việc tố cáo), đạt tỷ lệ 97,6%; số việc đang tiếp tục giải quyết là 176 việc. Qua theo dõi cho thấy, các vụ việc khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự tập trung chủ yếu ở một số địa phương: Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, An Giang, Đồng Tháp, Tây Ninh, Bình Thuận...
Qua công tác thanh tra, kiểm tra công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và xác minh, đối thoại với đương sự, làm việc với cơ quan Thi hành án dân sự địa phương, đến nay Bộ Tư pháp đã chỉ đạo và trực tiếp giải quyết được 41/54 vụ, trong đó, có những vụ việc rất phức tạp, kéo dài trong nhiều năm đã được giải quyết dứt điểm, như: vụ bà Nga, ông Học (Quảng Ngãi), vụ ông Bạch Ngọc Giáp (Hà Nội), vụ Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Nam (Cần Thơ)...
2.3. Báo cáo về công tác bồi thường nhà nước năm 2013
Theo số liệu báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) và các Bộ, ngành, địa phương, năm 2013 (tính từ ngày 01/10/2012 đến ngày 30/9/2013), có tổng số 82 đơn yêu cầu bồi thường (trong đó, đã thụ lý 61 đơn và có 21 đơn không đủ điều kiện thụ lý) và tiếp tục giải quyết 21 đơn đã thụ lý từ năm 2012 chuyển sang. Trong tổng số 82 vụ việc bồi thường nhà nước được giải quyết có 19 vụ việc trong hoạt động quản lý hành chính; 46 vụ việc trong hoạt động tố tụng; 17 vụ việc trong hoạt động thi hành án. Đã giải quyết xong 37/82 vụ việc (đạt tỷ lệ 45%), với số tiền Nhà nước phải bồi thường là 15.687.581 nghìn đồng; chưa giải quyết xong 45/82 vụ việc. Đã có 20 trường hợp người bị thiệt hại khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường theo quy định tại Điều 22 Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước, Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý 18 trường hợp, đã giải quyết 11 vụ án, với số tiền bồi thường là 22.700.790 nghìn đồng. Như vậy, tổng số tiền Nhà nước phải bồi thường được xác định trong các văn bản giải quyết bồi thường đã có hiệu lực pháp luật là 38.467.392 nghìn đồng. Kết quả giải quyết bồi thường năm 2013 cho thấy, so với số liệu trung bình của năm 2012 và các năm trước đó thì số vụ việc thụ lý cao hơn 34%, tuy nhiên, số vụ việc đã giải quyết xong trong năm 2013 thấp hơn 30%[3]. Mặc dù vậy, số tiền Nhà nước phải bồi thường trong năm 2013 đã tăng gần năm lần số tiền bồi thường trung bình 3 năm trước đây vì đã phát sinh một số vụ việc có yêu cầu bồi thường lớn, bên cạnh đó, đã giải quyết xong một số vụ việc tồn đọng từ những năm trước.
Qua đánh giá, hoạt động giải quyết bồi thường trong lĩnh vực tố tụng đã được TANDTC, VKSNDTC và Bộ Công an quan tâm chỉ đạo thực hiện, tuy nhiên, so với kết quả giải quyết yêu cầu bồi thường trong các lĩnh vực khác, tỷ lệ giải quyết xong trong lĩnh vực tố tụng là thấp nhất (mới giải quyết xong 11/46 vụ việc, đạt tỷ lệ 23%).
2.4. Báo cáo Hoạt động tương trợ tư pháp năm 2013
Trong những năm qua, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan có liên quan đã có nhiều nỗ lực thực thi Luật Tương trợ tư pháp trên tất cả các mặt để từng bước nâng cao hiệu quả của công tác này, đưa tỷ lệ kết quả thực hiện uỷ thác tư pháp về dân sự, hình sự và dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù tăng lên đáng kể, từ đó góp phần tích cực vào việc ổn định đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Về tình hình thực hiện uỷ thác tư pháp về dân sự, tổng số yêu cầu uỷ thác tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam gửi đi nước ngoài qua đầu mối Bộ Tư pháp là 3.777 yêu cầu. Tổng số yêu cầu uỷ thác tư pháp đã có trả lời gửi qua Bộ Tư pháp là 1.710/3.777 yêu cầu. Các yêu cầu uỷ thác tư pháp chủ yếu là tống đạt giấy tờ, tài liệu, bản án (trên 80%). Về nội dung, số lượng uỷ thác tư pháp liên quan đến vụ việc hôn nhân gia đình chiếm 55%, về dân sự là 41%. Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là cơ quan có nhiều yêu cầu uỷ thác tư pháp gửi đi nhất (khoảng 52%). Các nước, vùng lãnh thổ mà Việt Nam gửi nhiều uỷ thác tư pháp nhất là Hoa Kỳ, Canada, lãnh thổ Đài Loan, Úc, Hàn Quốc.
Đối với yêu cầu tương trợ tư pháp của cơ quan thẩm quyền nước ngoài gửi tới, Bộ Tư pháp nhận được 872 yêu cầu uỷ thác tư pháp của nước ngoài. Về kết quả thực hiện, Bộ Tư pháp đã nhận được 405 kết quả trả lời do các cơ quan Việt Nam thực hiện. Các yêu cầu uỷ thác tư pháp của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài phần lớn là tống đạt hồ sơ, tài liệu, thu thập chứng cứ, lấy lời khai, cung cấp thông tin về hộ tịch. Số vụ việc về hôn nhân gia đình chiếm 62%, về dân sự chiếm khoảng 31%. Đặc biệt trong thời gian gần đây đã phát sinh những yêu cầu uỷ thác tư pháp có nội dung mới, phức tạp như yêu cầu hỗ trợ áp dụng các biện pháp khẩn cấp. Các nước, vùng lãnh thổ có yêu cầu uỷ thác tư pháp gửi tới Việt Nam nhiều nhất là lãnh thổ Đài Loan, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Séc.
3. Tình hình ban hành Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính
3.1. Tình hình thực hiện: Thực hiện Quyết định số 1473/QĐ-TTg ngày 05/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch triển khai và Danh mục nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính, tính đến ngày 15/10/2013, đã ban hành được 22/55 nghị định quy định chi tiết thi hành Luật; các dự thảo nghị định còn lại đang gửi xin ý kiến Thành viên Chính phủ.
3.2. Ban hành Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Đây là một trong số những Nghị định có phạm vi điều chỉnh tương đối rộng, với những quy định mới nhằm góp phần tăng cường trật tự, kỷ cương quản lý nhà nước trong các hoạt động tư pháp. Nghị định gồm 08 chương, 75 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 11 tháng 11 năm 2013 và thay thế Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp; Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình; Nghị định số 10/2009/NĐ-CP ngày 06 tháng 02 năm 2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản.
Đây là một Nghị định nhận được nhiều sự quan tâm của dư luận xã hội. Cùng với việc sửa đổi, bổ sung, mô tả cụ thể hành vi vi phạm hành chính, Nghị định cũng đã tập trung sửa đổi, bổ sung hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả, từ đó góp phần bảo đảm tính răn đe đối với các tổ chức, cá nhân là đối tượng bị xử phạt. Nghị định đã tăng mức phạt đối với các hành vi vi phạm cho phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và tình hình kinh tế xã hội của đất nước, tránh tình trạng mức phạt không tương xứng với các khoản thu từ các hợp đồng dịch vụ của các tổ chức công chứng, luật sư, tư vấn pháp luật, bán đấu giá... như đối với hành vi dịch sai để trục lợi, người dịch sẽ bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng, hay đối với hành vi lợi dụng kết hôn nhằm mục đích xuất cảnh, nhập cảnh sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
Nghị định cũng phân biệt rõ mức phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức (Điều 4), trong đó: mức phạt tiền quy định tại các chương II, III, IV, V và VI của Nghị định được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân (trừ các điều 7, 8, 9, 15, 18, 21, 22, 29, 44, 51, 58, 59, 60, 62 và 63 được áp dụng đối với tổ chức) và trường hợp tổ chức có hành vi vi phạm hành chính như của cá nhân thì mức phạt tiền bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
III. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC CỦA BỘ TƯ PHÁP QUÝ IV NĂM 2013
1. Tiếp tục thực hiện việc tham mưu cho Chính phủ tham gia ý kiến đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII. Tiếp tục phối hợp với các cơ quan của Quốc hội hoàn chỉnh các Luật Công chứng (sửa đổi) và Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi), để trình Quốc hội khóa XIII thảo luận tại kỳ họp thứ 6.
2. Tăng cường thực hiện Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt là tập trung phối hợp với Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ và các bộ, ban, ngành, địa phương tổ chức thành công Lễ công bố Ngày Pháp luật Việt Nam năm 2013, bảo đảm thiết thực, hiệu quả.
3. Chỉ đạo kết hợp có hiệu quả giữa công tác theo dõi thi hành pháp luật với việc tăng cường hoạt động kiểm tra VBQPPL để tăng cường năng lực phản ứng chính sách, góp phần hoàn thiện pháp luật, nhất là những điểm chồng chéo, thiếu đồng bộ hoặc những khoảng trống pháp luật hiện nay trong một số lĩnh vực đang gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh hoặc đời sống người dân. Gắn kết chặt chẽ công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật với công tác kiểm soát thủ tục hành chính.
4. Tiếp tục tập trung soạn thảo các dự án luật quan trọng như Bộ luật hình sự (sửa đổi), Bộ luật dân sự (sửa đổi)…
5. Tập trung xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo; đôn đốc các bộ, ngành ban hành các văn bản quy phạm pháp luật còn nợ đọng.
6. Khẩn trương hoàn thành, trình Chính phủ ban hành các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính và tổ chức triển khai thực hiện.
7. Hoàn thành việc chuyển giao công tác kiểm soát thủ tục hành chính từ Văn phòng các Bộ, cơ quan ngang bộ và UBND cấp tỉnh sang tổ chức pháp chế và Sở Tư pháp. Đẩy mạnh công tác kiểm soát thủ tục hành chính, bảo đảm việc cắt giảm các gánh nặng và giảm tối đa chi phí tuân thủ cho người dân, doanh nghiệp.
8. Thực hiện hiệu quả Quy hoạch phát triển các tổ chức hành nghề công chứng. Tập trung kiểm tra, thanh tra, chấn chỉnh các tổ chức hành nghề công chứng có biểu hiện vi phạm./.