Thông cáo báo chí công tác tư pháp Quý I/2018I. KẾT QUẢ CÔNG TÁC CHỦ YẾU QUÝ I VÀ MỘT SỐ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CÔNG TÁC QUÝ II/20181. Kết quả công tác chủ yếu Quý I/2018
Trong Quý I/2018, Bộ, ngành Tư pháp đã bám sát Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2018 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2018, tập trung triển khai các nhiệm vụ trọng tâm thuộc chức năng, nhiệm vụ, đạt được một số kết quả như sau:>1.1. Về công tác xây dựng đề án, văn bản; thẩm định, kiểm tra, xử lý VBQPPL:Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình 02/02 văn bản là: Đề nghị của Chính phủ về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018 và Kế hoạch thực hiện hệ thống hóa VBQPPL kỳ 2014 - 2018 thống nhất trong cả nước; thẩm định 34 dự án, dự thảo VBQPPL, 07 đề nghị xây dựng VBQPPL (trong đó có một số dự án luật, dự thảo nghị quyết quan trọng như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư công, Luật sửa đổi, bổ sung một số luật có quy định liên quan đến quy hoạch; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học; Nghị quyết của Quốc hội về thành lập 03 đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc...); đã kiểm tra 640 văn bản của các Bộ, ngành, địa phương; bước đầu phát hiện 20 văn bản trái pháp luật về nội dung.Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ đôn đốc ban hành văn bản quy định chi tiết. Kết quả: đối với 61 văn bản quy định chi tiết 14 luật đã có hiệu lực, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã ban hành được 43/61 văn bản. Riêng Bộ Tư pháp đến nay không nợ văn bản quy định chi tiết.
1.2. Về công tác thi hành án dân sự:
Tính đến hết 28/02/2018 (05 tháng theo kỳ báo cáo), các cơ quan THADS đã thi hành xong 186.883 việc trong tổng số 409.447 việc có điều kiện thi hành, đạt tỉ lệ 45,64%; tăng 10.929 việc (0,74%) so với cùng kỳ năm 2017; với số tiền thi hành xong là hơn 9000 tỷ. Tổ chức theo dõi, đôn đốc thi hành xong 29/85 vụ việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính còn tồn đọng. Bộ cũng đã phối hợp, tham gia Đoàn giám sát của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội về thi hành các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính tại 10 tỉnh, thành phố là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Tiền Giang và Đồng Tháp; chuẩn bị sơ kết công tác THADS, thi hành án hành chính 06 tháng đầu năm 2018 (dự kiến sẽ được tổ chức vào ngày 20/4/2018).1.3. Về công tác hộ tịch, quốc tịch, nuôi con nuôi:
Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan tổ chức đánh giá tình hình triển khai thực hiện Chương trình hành động quốc gia của Việt Nam về đăng ký và thống kê hộ tịch; tiếp tục mở rộng áp dụng phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch cho các tỉnh Bắc Kạn, Bình Định, Bình Thuận, Cà Mau và Gia Lai; tham mưu, trình Chủ tịch nước giải quyết gần 1.300 hồ sơ xin thôi, xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam; xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 78/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật quốc tịch; giải quyết 105 hồ sơ xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, trong đó có 78 trường hợp trẻ em khuyết tật, mắc bệnh hiểm nghèo; tiếp tục xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 19/2011/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi.
1.4. Về lý lịch tư pháp, đăng ký giao dịch bảo đảm, bồi thường nhà nước:
Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia thuộc Bộ Tư pháp đã cấp 810 Phiếu LLTP, với 100% các trường hợp cấp Phiếu đúng hoặc sớm hơn thời hạn theo quy định của Luật; tiếp tục phối hợp với Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát, Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an tra cứu, xác minh thông tin án tích cho 24.684 hồ sơ, qua đó góp phần rút ngắn hơn thời gian giải quyết TTHC tại các Sở Tư pháp. Các Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản thuộc Cục ĐKQGGDBĐ đã giải quyết 205.419 đơn yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm và văn bản yêu cầu thông báo về việc thế chấp phương tiện giao thông (tăng khoảng 15% so với cùng kỳ năm 2017); tiếp nhận và cấp mới tài khoản đăng ký trực tuyến cho khoảng 50 tổ chức tín dụng. Bộ đã trình Chính phủ Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi); tiếp nhận mới và xử lý đối với 05 trường hợp của cơ quan, tổ chức có yêu cầu hướng dẫn giải quyết bồi thường và đã ban hành 04 văn bản hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết bồi thường đối với các trường hợp này; thực hiện việc cung cấp thông tin, hỗ trợ việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường cho 05 trường hợp.
1.5. Công tác bổ trợ tư pháp:
Bộ đã ban hành Thông tư số 02/2018/TT-BTP ngày 26/02/2018 hướng dẫn sử dụng một số biểu mẫu về tổ chức và hoạt động hòa giải thương mại; phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, TAND tối cao, Viện KSND tối cao ký Quy chế phối hợp liên ngành trong công tác giám định tư pháp (Quy chế số 992/QCPH-BTP-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/3/2018); tiếp tục phối hợp với Văn phòng Chính phủ hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 123/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật luật sư, dự thảo Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại; tiếp tục triển khai Đề án thành lập Hiệp hội công chứng viên Việt Nam.
Bộ Tư pháp đã cấp 243 Chứng chỉ hành nghề luật sư; 04 Giấy phép hành nghề tại Việt Nam cho luật sư nước ngoài; bổ nhiệm 44 công chứng viên; miễn nhiệm công chứng viên đối với 02 trường hợp; cấp 35 Chứng chỉ hành nghề đấu giá; cấp 37 chứng chỉ hành nghề quản tài viên; bổ nhiệm 24 Thừa phát lại.
1.6 Về công tác pháp luật quốc tế và hợp tác quốc tế:
Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 504/QĐ-BTP về việc thẩm định điều ước quốc tế; tham gia xây dựng phương án đàm phán, đàm phán và kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); chủ trì tổ chức Vòng đàm phán thứ nhất Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự giữa Việt Nam và Hungary; phối hợp với các Bộ, cơ quan, đơn vị có liên quan để thực hiện giải quyết 04 vụ tranh chấp, vụ kiện quốc tế. Bộ đã cấp 05 ý kiến pháp lý, chủ trì thẩm định 09 điều ước quốc tế, góp ý 83 điều ước quốc tế; tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp với các đối tác truyền thống, láng giềng, trong đó có việc phối hợp với Bộ Tư pháp Lào khởi động Dự án ODA hỗ trợ Học viện Tư pháp quốc gia Lào.
1.7. Về công tác cải cách hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính
Bộ đã ban hành Kế hoạch cải cách hành chính của Bộ Tư pháp năm 2018; hoàn thành việc chấm điểm chỉ số cải cách hành chính năm 2017 gửi Bộ Nội vụ. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ đã rà soát, đề xuất đơn giản, cắt giảm hoặc bãi bỏ 43/98 điều kiện kinh doanh thuộc 07 ngành, nghề trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, đạt tỷ lệ 44%. Bộ cũng đã có ý kiến đối với 71 TTHC tại 18 đề nghị xây dựng và dự án, dự thảo VBQPPL (gồm 06 luật, 09 nghị định, 01 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 02 thông tư) do các Bộ, cơ quan ngang Bộ chủ trì soạn thảo; trong đó, đã đề nghị sửa đổi 57 thủ tục không hợp lý (chiếm tỷ lệ 80,28 % tổng số TTHC quy định tại các đề nghị xây dựng và dự án, dự thảo văn bản).
1.8. Về trả lời kiến nghị cử tri; tiếp nhận, trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp; tiếp công dânvà thực hiện nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao:
Bộ đã trả lời đúng hạn tất cả 49 kiến nghị gửi đến Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIV (trong và sau kỳ họp qua đợt tiếp xúc cử tri); giải quyết 22/22 kiến nghị (16 kiến nghị của người dân và 06 kiến nghị của doanh nghiệp); tiếp 80 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo (giảm 18% so với cùng kỳ năm 2017). Bên cạnh đó, Lãnh đạo Bộ đã tổ chức 02 buổi tiếp công dân định kỳ với 04 lượt công dân được tiếp. Bộ cũng hoàn thành đúng hạn 100% các nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao trong Quý I/2018.
2. Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Quý II/2018
2.1. Chuẩn bị tốt nội dung phục vụ kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIV, trọng tâm là Đề nghị của Chính phủ về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018. Tiếp tục thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định các đề nghị xây dựng, dự thảo VBQPPL; theo dõi, đôn đốc, kiểm soát chặt chẽ tình hình xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, nhất là văn bản quy định chi tiết các Luật có hiệu lực từ ngày 01/7/2018.
2.2. Hoàn thiện đảm bảo tiến độ và chất lượng 05 văn bản, đề án thuộc Chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; 25 đề án, văn bản thuộc thẩm quyền của Bộ trong Quý II/2018; tiếp tục phối hợp Văn phòng Chính phủ hoàn thiện 06 đề án, văn bản đã trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong năm 2017 nhưng chưa được ban hành. Tiếp tục rà soát, xây dựng phương án đơn giản hóa, cắt giảm, bãi bỏ các quy định về kiểm tra chuyên ngành, điều kiện kinh doanh và tổ chức thực hiện theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
2.3. Tổ chức Hội nghị sơ kết công tác THADS 06 tháng đầu năm; trên cơ sở đó đề ra và tổ chức thực hiện tốt các giải pháp để bảo đảm hoàn thành chỉ tiêu Quốc hội giao về THADS. Tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp kéo dài. Chuẩn bị tốt Báo cáo của Chính phủ đối với nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 55/2017/QH14 của Quốc hội về thi hành án hành chính.
2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra đối với các tổ chức hành nghề bổ trợ tư pháp và hoàn thành các công việc để thành lập Hiệp hội công chứng viên Việt Nam. Tổ chức thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về nuôi con nuôi nước ngoài theo quy định. Tổ chức triển khai thực hiện Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật tiếp cận thông tin (có hiệu lực từ ngày 01/7/2018), trong đó, chú trọng tuyên truyền, phổ biến về các Luật này.
2.5. Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ và các đơn vị thuộc Bộ, nhất là thực hiện mở rộng việc sử dụng chữ ký số; rà soát, hoàn thiện Hệ thống quản lý văn bản và điều hành của Bộ để xử lý công việc trên môi trường mạng. Hướng dẫn, triển khai sơ kết công tác tư pháp 6 tháng đầu năm 2018.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG CÁC VĂN BẢN MỚI ĐƯỢC BAN HÀNH DO BỘ TƯ PHÁP CHỦ TRÌ SOẠN THẢO
Trong Quý I/2018, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 12 văn bản, đề án do Bộ Tư pháp soạn thảo, trình. Trong đó, có một số văn bản quan trọng như:
1. Nghị quyết số 07/NQ-CPngày 16/01/2018 của Chính phủ phê duyệt kết quả pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật đối với các chủ đề tương trợ tư pháp; văn thư, lưu trữ và 28 đề mục
Thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 12 Pháp lệnh pháp điển hệ thống QPPL, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 07/NQ-CP, theo đó, phê duyệt và đưa vào khai thác, sử dụng kết quả pháp điển hệ thống QPPL đối với các chủ đề tương trợ tư pháp; văn thư, lưu trữ và 28 đề mục (gồm: Bảo hiểm y tế; kinh doanh bảo hiểm; giám định tư pháp; dân số; phòng, chống bạo lực gia đình; cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; đăng ký và quản lý hộ tịch; lý lịch tư pháp; quốc tịch Việt Nam; công nghệ cao; các tổ chức tín dụng; ngoại hối; bảo vệ và kiểm dịch thực vật; động viên công nghiệp; lực lượng dự bị động viên; nghĩa vụ quân sự; quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; quản lý nợ công; đặc xá; thi hành án dân sự; thuế thu nhập cá nhân; cư trú; xử lý vi phạm hành chính; biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu; điện ảnh; quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng; theo dõi tình hình thi hành pháp luật)
Chính phủ giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan liên quan đăng tải kết quả pháp điển lên Cổng thông tin điện tử pháp điển để tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng. Trường hợp có VBQPPL sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới thuộc các chủ đề và đề mục nêu trên, các cơ quan phối hợp với Bộ Tư pháp kịp thời cập nhật QPPL mới và loại bỏ những QPPL hết hiệu lực ra khỏi Bộ pháp điển theo quy định. Đồng thời, các Bộ, cơ quan ngang Bộ: Lao động - Thương binh và Xã hội, Tài chính, Quốc phòng và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẩn trương rà soát, đề xuất việc chấm dứt hiệu lực các VBQPPL do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành không còn áp dụng trên thực tế thuộc lĩnh vực quản lý được phân công, gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp xây dựng VBQPPL để chấm dứt hiệu lực các văn bản này trong Quý II/2018.
2. Nghị định số 13/2018/NĐ-CP ngày 23/01/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật tiếp cận thông tin
Để quy định chi tiết một số nội dung của Luật tiếp cận thông tin, đồng thời bảo đảm tính thống nhất trong việc triển khai các biện pháp thi hành Luật, ngày 23/01/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2018/NĐ-CP, trong đó quy định về các nội dung như: biện pháp tạo điều kiện để người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, người khuyết tật được thực hiện quyền tiếp cận thông tin; việc tiếp cận thông tin theo yêu cầu thông qua tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp; các mẫu phiếu sử dụng trong cung cấp thông tin theo yêu cầu; danh mục, phân loại cập nhật thông tin; rà soát kiểm tra và bảo mật thông tin trước khi cung cấp; trách nhiệm của đầu mối cung cấp thông tin... Cùng với Nghị định này, tới đây, các Bộ, cơ quan sẽ ban hành Quy chế để triển khai việc cung cấp thông tin cho công dân theo quy định của Luật kể từ ngày 01/7/2018.
3. Nghị định số 37/2018/NĐ-CP ngày 10/03/2018 củaChính phủ quy định chi tiết thi hành các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự
Thực hiện chủ trương nhân đạo hóa, tăng tính hướng thiện trong chính sách xử lý hình sự đối với người chưa thành niên theo tinh thần Nghị quyết số 48/NQ-TW, Nghị quyết số 49/NQ-TW, cũng như để bảo đảm sự phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các chuẩn mực pháp lý quốc tế về tư pháp đối với người chưa thành niên, Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung quy định về việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục, đồng thời, quy định về 03 biện pháp giám sát, giáo dục bao gồm: khiển trách, hòa giải tại cộng đồng và giáo dục tại xã, phường, thị trấn với các nghĩa vụ cụ thể mà người chưa thành niên được miễn trách nhiệm hình sự phải thực hiện tại cộng đồng nhằm tăng cường hiệu quả phòng ngừa tái phạm, bảo đảm phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng đối với các em.
Để bảo đảm tính khả thi, hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục trên thực tế, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 37/2018/NĐ-CP quy định cụ thể các nguyên tắc thực hiện việc giám sát, giáo dục nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người được giám sát, giáo dục; xác định cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thi hành các biện pháp giám sát, giáo dục là UBND cấp xã, đồng thời quy định rõ trình tự, thủ tục thực hiện việc giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi được miễn trách nhiệm hình sự, từ việc lập hồ sơ ban đầu, xây dựng kế hoạch giám sát, giáo dục và việc thực hiện các biện pháp giám sát, giáo dục cụ thể như tổ chức cho người được giám sát giáo dục tham gia chương trình học tập, dạy nghề, kỹ năng sống, lao động tại cộng đồng... Nghị định cũng quy định cụ thể trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia đình trong việc giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân này.
4. Quyết định số 199/QĐ-TTg ngày 09/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Phương án đơn giản hóa đối với nhóm thủ tục hành chính, quy định liên quan đến lý lịch tư pháp và yêu cầu nộp bản sao giấy tờ có công chứng, chứng thực
Thực hiện chủ trương đơn giản hóa TTHC, tiết kiệm thời gian, chi phí cho các tổ chức, cá nhân khi thực hiện các TTHC, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 199/QĐ-TTg, theo đó, phê duyệt phương án cụ thể để đơn giản hóa 299 thủ tục của 15 bộ, cơ quan liên quan đến LLTP và yêu cầu nộp bản sao giấy tờ có công chứng, chứng thực. Theo Quyết định này, các TTHC được đơn giản hóa theo các phương án: (1) Không quy định việc công chứng bản sao hoặc bản sao có công chứng; quy định có thể lựa chọn nộp bản sao từ sổ gốc hoặc nộp bản sao và xuất trình bản chính để đối chiếu hoặc bản sao có chứng thực (trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp), nộp bản sao có chứng thực (trường hợp nộp qua bưu điện) và đề xuất bỏ thành phần hồ sơ nếu thành phần hồ sơ đó không bảo đảm tính cần thiết, hợp lý và hợp pháp; (2) Đơn giản hóa đối với thủ tục cấp Phiếu LLTP theo hướng đơn giản thành phần, đa dạng hóa cách thức nộp hồ sơ yêu cầu và nhận Phiếu LLTP; rút ngắn thời gian cấp Phiếu; đồng thời quy định cơ chế phối hợp cung cấp thông tin lý LLTP giữa cơ quan quản lý LLTP với cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử, công tác quản lý nhân sự, hoạt động đăng ký kinh doanh, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.
Để thực thi các phương án đơn giản hóa, dự kiến cần sửa đổi, bổ sung 03 luật của Quốc hội, 32 nghị định của Chính phủ, 01 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 97 thông tư, thông tư liên tịch của các Bộ, ngành, 02 quyết định của Bộ trưởng và 07 văn bản của các cơ quan ngân hàng. Thủ tướng Chính phủ giao các Bộ, ngành thực thi phương án đơn giản hóa trong quá trình xây dựng các dự án luật; nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ và VBQPPL của các Bộ. Ngân hàng phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội ban hành văn bản theo thẩm quyền để thực thi nội dung phương án đơn giản hóa được Chính phủ thông qua.
5. Quyết định số 242/QĐ-TTg ngày 26/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật giai đoạn 2018 - 2022
Với mục tiêu nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật, hướng đến mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, tăng cường hiệu lực và hiệu quả của hệ thống pháp luật; từng bước khắc phục những hạn chế, bất cập trong tổ chức THPL, Đề án xác định 07 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cơ bản: (1) Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp trong công tác tổ chức THPL, trong đó giao Bộ Tư pháp chủ trì xây dựng, trình Ban cán sự đảng Chính phủ để xem xét, trình Ban Bí thư ban hành Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp trong công tác tổ chức THPL; (2) Nghiên cứu, trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP về theo dõi tình hình THPL và nghiên cứu, xây dựng đề xuất chính sách phục vụ việc lập hồ sơ trình Chính phủ đề nghị xây dựng Luật về tổ chức THPL; (3) Xây dựng, hoàn thiện và tổ chức áp dụng thí điểm Khung theo dõi THPL và hệ thu thập dữ liệu phục vụ công tác theo dõi THPL, trên cơ sở đó xây dựng, ban hành Thông tư hướng dẫn tiêu chí đánh giá tình hình THPL; (4) Xây dựng quy trình chung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương trong việc tiếp nhận, xử lý kiến nghị, phản ánh của các cơ quan, tổ chức, cá nhân về tình hình THPL; (5) Ứng dụng CNTT trong hoạt động tổ chức THPL; (6) Tăng cường theo dõi, kiểm tra việc thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước trong công tác tổ chức THPL; (7) Bảo đảm các điều kiện về tổ chức, biên chế, kinh phí… cho công tác tổ chức THPL. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang xây dựng Kế hoạch và triển khai thực hiện Đề án này.
6. Quyết định số 250/QĐ-TTgngày 28/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp
Nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động và quản lý giám định tư pháp, tạo chuyển biến về chất lượng và hiệu quả hoạt động giám định tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động tố tụng, phòng, chống tội phạm, tham nhũng, đồng thời tạo động lực mới thúc đẩy xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động giám định tư pháp, Đề án xác định 03 nhóm nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm, gồm: (1) Hoàn thiện thể chế giám định tư pháp, theo đó, tập trung xây dựng và ban hành Thông tư hướng dẫn việc trưng cầu, đánh giá, sử dụng kết luận giám định tư pháp trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và rà soát, ban hành đầy đủ các Thông tư quy định về quy trình giám định hoặc hướng dẫn áp dụng quy trình giám định ở lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, văn hóa, tài nguyên và môi trường, đầu tư, thông tin và truyền thông, nông nghiệp và phát triển nông thôn, công thương, khoa học và công nghệ...; (2) Tiếp tục hoàn thiện tổ chức giám định tư pháp; nâng cao chất lượng người giám định tư pháp; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ giám định; (3) Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giám định tư pháp, trong đó có việc nghiên cứu, trình cấp có thẩm quyền thành lập Tổ tư vấn liên ngành về giám định tư pháp; hoàn thiện chính sách đãi ngộ, thu hút nhân lực làm giám định tư pháp và ban hành Quy chế phối hợp liên ngành; đồng thời, tăng cường kiểm tra, thanh tra tình hình tổ chức, hoạt động giám định tư pháp, việc thực hiện nhiệm vụ của các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan tiến hành tố tụng về giám định tư pháp.
7. Quyết định số 126/QĐ-TTg ngày 25/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật thống nhất trong cả nước kỳ 2014 - 2018
Thực hiện quy định tại Luật ban hành VBQPPL và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP của Chính phủ, để việc triển khai nhiệm vụ hệ thống hóa VBQPPL theo định kỳ bảo đảm tiến độ, chất lượng và công bố đầy đủ các VBQPPL còn hiệu lực giúp công tác xây dựng, áp dụng, thi hành pháp luật được hiệu quả, thuận tiện, tăng cường tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hệ thống hóa VBQPPL thống nhất trong cả nước kỳ 2014 - 2018. Đối tượng hệ thống hóa là VBQPPL còn hiệu lực và VBQPPL được ban hành nhưng chưa có hiệu lực tính đến hết ngày 31/12/2018 (trừ Hiến pháp). Phạm vi hệ thống hóa là tất cả các VBQPPL được ban hành đến hết ngày 31/12/2018 qua rà soát xác định còn hiệu lực (bao gồm cả các văn bản được ban hành nhưng đến hết ngày 31/12/2018 chưa có hiệu lực, trừ Hiến pháp) thuộc trách nhiệm rà soát, hệ thống hóa của các cơ quan theo quy định của Luật ban hành VBQPPL và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP.
Kế hoạch gồm 06 nội dung chủ yếu như sau: (1) Xây dựng tài liệu hướng dẫn xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện hệ thống hóa văn bản kỳ 2014 - 2018; (2) Xây dựng Kế hoạch hệ thống hóa văn bản kỳ 2014 - 2018 tại các Bộ, ngành, địa phương; (3) Tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ rà soát, hệ thống hóa văn bản phục vụ hệ thống hóa văn bản kỳ 2014 - 2018; (4) Tổ chức thực hiện hệ thống hóa văn bản kỳ 2014 - 2018; (5) Công bố kết quả hệ thống hóa văn bản kỳ 2014 - 2018; (6) Báo cáo kết quả hệ thống hóa văn bản kỳ 2014 - 2018.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ BÁO CHÍ PHẢN ÁNH LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ, NGÀNH TƯ PHÁP
1.Về tình hình kiểm tra, xử lý Thông tư số 32/2016/TT-NHNN ngày 26/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
Cục Kiểm tra VBQPPL, Bộ Tư pháp đã tiến hành kiểm tra theo thẩm quyền Thông tư số 32/2016/TT-NHNN, tổ chức nhiều cuộc họp để trao đổi, thảo luận với các cơ quan, đơn vị liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học; trên cơ sở đó có kết luận về tính hợp pháp của một số quy định tại khoản 6 Điều 1 và điểm c khoản 2 Điều 4 của Thông tư này Kết luận kiểm tra số 05/KL-KTrVB của Cục Kiểm tra VBQPPL)
Ngày 12/02/2018, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 02/2018/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 32/2016/TT-NHNN. Tuy nhiên, Thông tư số 02/2018/TT-NHNN chưa xử lý các nội dung theo kiến nghị tại Kết luận kiểm tra số 05/KL-KTrVB mà chỉ sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 4 Thông tư số 32/2016/TT-NHNN, theo đó, kéo dài thời hạn chuyển đổi thêm 02 năm đối với các tài khoản thanh toán của tổ chức không có tư cách pháp nhân đã mở trước ngày Thông tư số 32/2016/TT-NHNN có hiệu lực (ngày 01/3/2017) sang hình thức tài khoản thanh toán của cá nhân hoặc tài khoản thanh toán chung hoặc đóng tài khoản.
Ngày 27/02/2018, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có Công văn số 1187/NHNN-PC gửi Cục Kiểm tra VBQPPL, Bộ Tư pháp, theo đó, tiếp tục giữ quan điểm cho rằng quy định tại khoản 6 Điều 1 và điểm c khoản 2 Điều 4 của Thông tư là hợp pháp và không tiếp thu các kiến nghị tại Kết luận kiểm tra 05/KL-KTrVB.
Hiện nay, trên cơ sở kết quả kiểm tra và ý kiến của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Cục Kiểm tra VBQPPL, Bộ Tư pháp đang đề xuất Lãnh đạo Bộ Tư pháp báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ theo quy định.
2. Về việc tiếp tục triển khai cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua dịch vụ bưu chính, đăng ký cấp Phiếu LLTP trực tuyến
Thực hiện Quyết định số 19/QĐ-TTg ngày 08/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thí điểm cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính, đăng ký cấp Phiếu LLTP trực tuyến, Bộ Tư pháp đã phối hợp với một số Bộ, ngành và các địa phương có liên quan tổ chức tổng kết 03 năm thực hiện Đề án này. Kết quả tổng kết cho thấy, qua 03 năm triển khai thực hiện Đề án 19, đến ngày 31/10/2017, cả nước có 60/63 Sở Tư pháp triển khai phương thức cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính và giải quyết hơn 300.000 trường hợp cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ này; có 51/63 Sở Tư pháp triển khai phương thức đăng ký cấp Phiếu LLTP trực tuyến kết hợp dịch vụ cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu điện và đã tiếp nhận, xử lý hơn 80.000 trường hợp.
Nhìn chung, việc triển khai Đề án 19 là phù hợp với chủ trương của Đảng, Chính phủ về đơn giản hóa, tăng cường ứng dụng CNTT trong giải quyết TTHC và đẩy mạnh việc cung cấp các dịch vụ công rõ ràng, minh bạch, thuận lợi cho người dân; giúp tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí đi lại của công dân và cả người nước ngoài yêu cầu cấp Phiếu LLTP. Việc cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính, đăng ký cấp Phiếu LLTP trực tuyến được cơ quan, tổ chức, cá nhân hài lòng, đánh giá cao. Đối với cơ quan có thẩm quyền cấp Phiếu LLTP, việc triển khai Đề án 19 giúp giảm áp lực tiếp nhận hồ sơ hành chính tại bộ phận một cửa, nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết công việc, hướng tới sự phục vụ người dân ngày một tốt hơn.
Trên cơ sở kết quả tổng kết, Bộ Tư pháp sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định việc tiếp tục thực hiện triển khai cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính, đăng ký cấp Phiếu LLTP trực tuyến. Đồng thời với việc cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính, đăng ký cấp Phiếu LLTP trực tuyến, việc cấp Phiếu LLTP với hình thức nộp hồ sơ trực tiếp vẫn được thực hiện bình thường, tùy theo nhu cầu của người dân.
3. Về vi bằng do Thừa phát lại lập
Qua phản ánh của báo chí và qua theo dõi hoạt động TPL trong thời gian qua cho thấy, có hiện tượng hiểu chưa đúng và chưa thống nhất về vi bằng và giá trị pháp lý của vi bằng do TPL lập. Để dư luận, người dân hiểu đúng và thống nhất về vi bằng, giá trị pháp lý của vi bằng do TPL lập, Bộ Tư pháp cung cấp thêm thông tin như sau:
- Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của TPL thực hiện thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP có quy định về khái niệm, thẩm quyền, phạm vi lập vi bằng; thủ tục lập vi bằng; hình thức và nội dung chủ yếu của vi bằng; giá trị pháp lý của vi bằng do TPL lập... Cụ thể như sau:
+ Về khái niệm: Vi bằng là văn bản do TPL lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác.
+ Về thẩm quyền, phạm vi lập vi bằng: TPL có quyền lập vi bằng đối với các sự kiện, hành vi theo yêu cầu của đương sự, trừ các trường hợp quy định tại Điều 6 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP; các trường hợp vi phạm quy định về bảo đảm an ninh, quốc phòng; vi phạm bí mật đời tư theo quy định tại Điều 38 Bộ luật dân sự; các trường hợp thuộc thẩm quyền công chứng của tổ chức hành nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của UBND các cấp và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. TPL được lập vi bằng các sự kiện, hành vi xảy ra trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đặt Văn phòng TPL.
+ Về giá trị pháp lý: Vi bằng có giá trị chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ án; là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
- Vi bằng không phải văn bản công chứng[1], chứng thực[2]; không có giá trị thay thế văn bản công chứng, chứng thực. Việc chuyển quyền sử dụng đất, nhà ở phải được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về đất đai, nhà ở và pháp luật về công chứng, chứng thực.
Trên đây là Thông cáo báo chí phục vụ Họp báo Quý I/2018, Bộ Tư pháp xin thông báo tới các cơ quan thông tấn, báo chí.
Xin trân trọng cảm ơn./.
[1] Văn bản công chứng là hợp đồng, giao dịch, bản dịch đã được công chứng viên chứng nhận theo quy định của Luật công chứng; Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng. Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác. Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.
[2] Văn bản chứng thực là giấy tờ, văn bản, hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực theo quy định của pháp luật. Bản sao được cấp từ sổ gốc có giá trị sử dụng thay cho bản chính trong các giao dịch, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Bản sao được chứng thực từ bản chính theo quy định tại Nghị định này có giá trị sử dụng thay cho bản chính đã dùng để đối chiếu chứng thực trong các giao dịch, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Chữ ký được chứng thực theo quy định tại Nghị định này có giá trị chứng minh người yêu cầu chứng thực đã ký chữ ký đó, là căn cứ để xác định trách nhiệm của người ký về nội dung của giấy tờ, văn bản. Hợp đồng, giao dịch được chứng thực theo quy định của Nghị định này có giá trị chứng cứ chứng minh về thời gian, địa điểm các bên đã ký kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch.