Thông cáo báo chí công tác tư pháp Quý II năm 2013

13/07/2013

I. MỘT SỐ KẾT QUẢ CHỦ YẾU ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CÔNG TÁC  NHỮNG THÁNG CUỐI NĂM 2013

1. Kết quả chủ yếu:

Trong Quý II và 6 tháng đầu năm 2013, Bộ, Ngành Tư pháp đã triển khai toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm các mặt công tác bám sát chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và ý kiến kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị toàn quốc triển khai công tác tư pháp năm 2013, góp phần phục vụ đắc lực các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ. Một số nhiệm vụ trọng tâm đề ra tại Hội nghị toàn quốc triển khai công tác tư pháp năm 2013 đã đạt được những kết quả chủ yếu như sau:

1.1. Toàn Ngành hoàn thành nhiệm vụ giúp Chính phủ, HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức có hiệu quả việc lấy ý kiến nhân dân đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang xây dựng Báo cáo đề xuất của Chính phủ về việc sửa đổi Chương IX (Chính quyền địa phương) trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Ngày 30/7/2013, Bộ sẽ tổ chức tọa đàm để lấy ý kiến một số địa phương và chuyên gia, nhà khoa học để tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện Báo cáo này.

1.2. Công tác xây dựng pháp luật tiếp tục được toàn Ngành quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện mạnh mẽ và có hiệu quả, bám sát hơn yêu cầu chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, cả nước, chú trọng những lĩnh vực kinh tế - xã hội có nhiều bức xúc. 

Trong công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), đồng thời với việc chú trọng tính khả thi, hợp pháp, hợp lý của dự thảo văn bản, công tác này đã được gắn kết chặt chẽ hơn với công tác kiểm soát thủ tục hành chính và đổi mới quy trình, cách thức để nâng cao chất lượng thẩm định. Trong 6 tháng đầu năm 2013, toàn Ngành Tư pháp đã tiến hành thẩm định 4.065 VBQPPL, trong đó, Bộ Tư pháp đã thẩm định 329 văn bản (có 21 điều ước quốc tế). Đặc biệt, Bộ Tư pháp đã tập trung nguồn lực thẩm định theo thủ tục rút gọn 41 VBQPPL cụ thể hóa các giải pháp đã được nêu trong các Nghị quyết số 01/NQ-CP, số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ.

Công tác kiểm tra VBQPPL được các bộ, ngành, địa phương tăng cường thực hiện thường xuyên hơn và không ngừng được nâng cao chất lượng, hiệu quả; bước đầu kết hợp việc kiểm tra văn bản với công tác theo dõi thi hành pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính. Trong 6 tháng đầu năm 2013, các bộ, ngành, địa phương (bao gồm cả cấp tỉnh và cấp huyện) đã kiểm tra 251.900 văn bản, trong đó: Các địa phương đã kiểm tra 251.002 văn bản; qua kiểm tra, đã phát hiện 3.960 văn bản có dấu hiệu chưa đảm bảo tính hợp pháp theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP, trong đó có 528 VBQPPL có dấu hiệu vi phạm pháp luật về nội dung và thẩm quyền. Tình hình xử lý văn bản có dấu hiệu chưa đảm bảo tính hợp pháp đã có chuyển biến, một số cơ quan ban hành văn bản đã chủ động phối hợp xử lý kịp thời, nhất là những quy định gây bức xúc trong xã hội (ví dụ như quy định xử phạt mũ bảo hiểm không đạt chất lượng; quy định không được phát tán thông tin cho người khác dưới bất kỳ hình thức nào trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2013; đối tượng ưu tiên tuyển sinh đại học…).

 Để có những giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục tình trạng nợ đọng văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh, Bộ Tư pháp với vai trò là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật, mới đây đã được Thủ tướng Chính phủ chuyển giao trách nhiệm thực hiện theo dõi tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh từ Văn phòng Chính phủ, kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2013 (theo Quyết định số 921/QĐ-TTg ngày 12/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ).

         Triển khai thực hiện nhiệm vụ mới nêu trên, Bộ Tư pháp đang phối hợp với Văn phòng Chính phủ xây dựng “Quy chế phối hợp trong công tác theo dõi tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh” nhằm tăng cường và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ trong công tác này, đảm bảo hoạt động dõi tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh được triển khai thực hiện có hiệu quả.

1.3. Trong công tác kiểm soát thủ tục hành chính (TTHC), Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 367/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 thành lập Hội đồng Tư vấn cải cách TTHC để nâng cao chất lượng tham mưu, tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ thực hiện tốt yêu cầu, mục tiêu cải cách TTHC đã đề ra.

Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 - 2020 do Bộ Tư pháp chủ trì xây dựng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhằm đổi mới căn bản tổ chức, hoạt động quản lý nhà nước về dân cư, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm giấy tờ công dân, góp phần phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam.

Hiện nay, Bộ Tư pháp đang tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương trong công tác chỉ đạo chuyển giao công tác kiểm soát TTHC từ Văn phòng các bộ, cơ quan ngang bộ và UBND cấp tỉnh sang tổ chức pháp chế và Sở Tư pháp theo Nghị định số 48/2013/NĐ-CP ngày 14/5/2013 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến kiểm soát thủ tục hành chính.

 1.4. Hoàn thiện việc xây dựng Luật Hoà giải ở cơ sở và đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 5, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện và thống nhất điều chỉnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở trong cộng đồng dân cư; Nhà nước có chính sách tạo điều kiện, hỗ trợ cho hoạt động hòa giải cơ sở; khuyến khích các bên giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp bằng hình thức hòa giải cơ sở và các hình thức hòa giải thích hợp khác; thúc đẩy sự tham gia của toàn xã hội, đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bảo đảm tính linh hoạt, mềm dẻo, giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong nhân dân ở cơ sở, tiết kiệm thời gian, kinh phí cho nhà nước và nhân dân, qua đó bảo đảm tốt hơn hiệu lực thi hành pháp luật trong hoạt động hòa giải cơ sở.

1.5. Trong công tác thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo thực hiện tốt công tác rà soát, phân loại án, đưa tỷ lệ án có điều kiện thi hành đạt được chuyển biến tích cực so với cùng kỳ năm 2012 (trong đó, số việc có điều kiện thi hành chiếm tỷ lệ 79,02%, cao hơn 12% so với cùng kỳ năm 2012). Kết quả thi hành án từ ngày 01/10/2012 đến ngày 30/6/2013 là: Về việc, đã thi hành xong 306.189/480.986 việc có điều kiện thi hành, đạt tỷ lệ 63,66%. Về tiền: đã thi hành xong 15.285 tỷ 149 triệu 204 nghìn đồng/ 40.799 tỷ 894 triệu 91 nghìn đồng có điều kiện thi hành, đạt tỷ lệ 37,46%.

 Thực hiện Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương cho đến tháng 12/2015, Bộ Tư pháp đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 510/QĐ-TTg ngày 25/3/2013 phê duyệt Đề án “Tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại”. Trên cơ sở đó, ngày 24/6/2013, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1531/QĐ-BTP lựa chọn 12 địa phương thực hiện thí điểm chế định này (gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Đồng Nai, Bình Dương, Tiền Giang, An Giang, Vĩnh Long). Với vai trò là cơ quan chủ trì việc thực hiện Đề án của Chính phủ, Bộ Tư pháp đang phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan để chỉ đạo thực hiện việc mở rộng chế định này tại các địa phương nêu trên đảm bảo chất lượng, hiệu quả.

1.6. Công tác đăng ký và quản lý hộ tịch được triển khai nền nếp, đảm bảo lành mạnh hóa quan hệ hộ tịch nói chung, quan hệ hôn nhân và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng. Trong 6 tháng đầu năm 2013: các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thực hiện đăng ký khai sinh cho 1.048.256 trường hợp (tăng 15,1% so với cùng kỳ năm 2012), khai tử cho 221.965 trường hợp (tăng 1,7% so với cùng kỳ năm 2012), đăng ký kết hôn cho 469.162 cặp (tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2012), trong đó có 6.103 trường hợp có yếu tố nước ngoài (tăng 1% so với cùng kỳ năm 2012).

 1.7. Công tác quản lý nhà nước về bổ trợ tư pháp tiếp tục được tăng cường, nhất là luật sư, công chứng, giám định tư pháp, bám sát định hướng xã hội hóa theo yêu cầu của Chiến lược Cải cách tư pháp bảo đảm phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân. Triển khai Quy hoạch phát triển các tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đến nay các tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên tiếp tục phát triển với số lượng 675 tổ chức (tăng 22,3% so với cùng kỳ năm 2012) và 1.734 công chứng viên đang hành nghề (tăng gần 70% so với cùng kỳ năm 2012).

 2. Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác những tháng cuối năm 2013

 2.1. Tiếp tục tham mưu giúp Chính phủ, Ban Chỉ đạo của Chính phủ tham gia ý kiến Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

 2.2. Hoàn thành các dự án luật được giao soạn thảo theo Chương trình năm 2013 (như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công chứng). Theo dõi, đôn đốc các bộ, ngành hoàn thành đúng tiến độ và đảm bảo chất lượng các dự án luật, pháp lệnh được giao chủ trì soạn thảo và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh đã được Quốc hội thông qua. Hoàn thành Đề án thí điểm cơ chế kiểm soát tập trung việc ban hành thông tư, thông tư liên tịch trong những lĩnh vực trực tiếp liên quan đến quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức.

 2.3. Chỉ đạo kết hợp có hiệu quả giữa công tác theo dõi thi hành pháp luật với việc tăng cường hoạt động kiểm tra VBQPPL để tăng cường năng lực phản ứng chính sách, góp phần hoàn thiện pháp luật, nhất là những điểm chồng chéo, thiếu đồng bộ hoặc những khoảng trống pháp luật hiện nay trong một số lĩnh vực đang gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh hoặc đời sống người dân.

         Gắn kết chặt chẽ công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật với công tác kiểm soát thủ tục hành chính (theo hướng: Chỉ khi nào thật sự cần thiết mới được ban hành thủ tục hành chính mới, đồng thời sửa đổi, hủy bỏ những thủ tục hành chính không còn phù hợp, không cần thiết gây phiền hà cho doanh nghiệp, công dân, cản trở sự phát triển cũng như quyền làm chủ của người dân).

         2.4. Hoàn thành việc chuyển giao công tác kiểm soát thủ tục hành chính từ Văn phòng các Bộ, cơ quan ngang bộ và UBND cấp tỉnh sang tổ chức pháp chế và Sở Tư pháp. Đẩy mạnh công tác kiểm soát thủ tục hành chính, bảo đảm việc cắt giảm các gánh nặng và giảm tối đa chi phí tuân thủ cho người dân, doanh nghiệp.

 2.5. Khẩn trương hoàn thành, trình Chính phủ ban hành các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính và tổ chức triển khai thực hiện.

 2.6. Tập trung chỉ đạo quyết liệt việc tổ chức thi hành án, bảo đảm đạt tỷ lệ thi hành án dân sự xong trên 88% về việc và trên 77% về tiền trên tổng số việc, tiền có điều kiện thi hành. Tổ chức thực hiện Đề án mở rộng thực hiện chế định thí điểm thừa phát lại tại 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tại thành phố Hồ Chí Minh.

 2.7. Triển khai có hiệu quả Luật Phổ biến giáo dục pháp luật, Luật Hoà giải ở cơ sở bám sát hơn nhu cầu xã hội và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương; tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả “Ngày Pháp luật”.

 II. CÔNG TÁC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH

          Bộ Tư pháp đã xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 1473/QĐ-TTg ngày 05/10/2012 ban hành Kế hoạch triển khai và Danh mục nghị định quy định chi tiết thi hành Luật XLVPHC. Theo đó, từ gần 130 nghị định và các văn bản có quy định về xử phạt hành chính hiện hành, nay  giảm xuống còn 56 nghị định. Việc giảm số lượng lớn các nghị định sẽ góp phần kiểm soát hiệu quả hơn tình hành ban hành văn bản; đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch và đơn giản hóa hệ thống văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; tạo hành lang pháp lý ổn định, tránh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các nghị định; tiết kiệm thời gian, công sức trong quá trình soạn thảo, ban hành, thay vì tách lẻ từng nhóm, từng lĩnh vực để quy định trong rất nhiều nghị định như trước đây. Qua đó, tạo điều kiện cho người dân nghiêm túc chấp hành pháp luật, các công chức thực thi nhiệm vụ được thuận lợi, đồng thời để nhằm thực hiện một trong những mục tiêu cơ bản của việc ban hành Luật XLVPHC.

        Trong thời gian vừa qua, Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo các bộ, ngành khẩn trương rà soát các văn bản quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc bộ, ngành mình, phối hợp thảo luận, thống nhất danh mục văn bản quy định chi tiết theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng đã ban hành các quyết định để thành lập Tổ công tác liên ngành trực tiếp giải quyết các khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình tổ chức soạn thảo các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật XLVPHC, thành lập Hội đồng tư vấn thẩm định các dự thảo nghị định nói trên nhằm tăng cường tính chuyên môn hóa, nâng cao chất lượng các dự thảo nghị định trước khi trình Chính phủ xem xét, ban hành và thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Quyết định số 1473/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tuy  nhiên, tại thời điểm Luật XLVPHC có hiệu lực, phần lớn số các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật chưa được ban hành. Để bảo đảm không tạo ra khoảng trống pháp lý trong thực thi pháp luật về XLVPHC, trên cơ sở báo cáo đề xuất của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, tại Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2013, Chính phủ đã đồng ý với đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc tiếp tục áp dụng quy định tại các nghị định hiện hành và các biểu mẫu quyết định, biên bản kèm theo các nghị định này nếu không trái với tinh thần của Luật XLVPHC.

  Tính đến ngày 25/7/2013, các bộ, ngành đã hoàn thành, gửi Hội đồng tư vấn thẩm định 51/56 dự thảo nghị định; Bộ Tư pháp phát hành văn bản thẩm định chính thức đối với 41 dự thảo nghị định[1]. Bộ Tư pháp cũng đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 quy định về chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn và các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên.[2]

          Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ cho ý kiến về dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Về cơ bản, dự thảo Nghị định quy định theo hướng tăng mức phạt tiền so với trước đây đối với từng hành vi vi phạm cụ thể để đảm bảo tính răn đe và nghiêm minh của các quy định về xử phạt. Bên cạnh đó, dự thảo Nghị định có một số quy định mới, ví dụ như: Bổ sung việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thừa phát lại; bỏ hành vi vi phạm quy định về kết hôn giữa những người cùng giới tính quy định tại Nghị định số 87/2001/NĐ-CP…vv.

          Ngày 19/07/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 81/2013/NĐ-CP  Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính.

 

          III. CÔNG TÁC THỰC HIỆN CHỈ THỊ CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH

         Thủ tướng Chính phủ vừa có Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 05/7/2013 yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tổ chức triển khai thực hiện Nghị định số 48/2013/NĐ-CP ngày 14/5/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến kiểm soát thủ tục hành chính (KSTTHC). Chỉ thị yêu cầu các bộ, ngành, địa phương, Tổng Giám đốc các cơ quan: Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội khẩn trương tổ chức việc chuyển giao, tiếp nhận nhiệm vụ, biên chế KSTTHC từ tổ chức, biên chế hành chính được giao cho Phòng KSTTHC và các điều kiện về tài chính, trang thiết bị, tài sản, hồ sơ, tài liệu có liên quan từ Văn phòng Bộ, cơ quan, Văn phòng UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về tổ chức pháp chế Bộ, cơ quan, Sở Tư pháp.

         Thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, nhiều bộ, ngành, địa phương đã ban hành Kế hoạch và văn bản chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan quán triệt, triển khai thực hiện Nghị định số 48/2013/NĐ-CP. Đến 24/7/2013 đã có 9/24 bộ, ngành, 27/63 địa phương đã tiến hành chuyển giao nhiệm vụ, tổ chức biên chế và các nội dung liên quan đến KSTTHC theo Chỉ thị của Thủ tướng. 

         Hiện nay, Bộ Tư pháp đang hướng dẫn, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương khẩn trương thực hiện việc sửa đổi quy trình xây dựng, ban  hành văn bản quy phạm pháp luật; quy chế phối hợp giữa tổ chức pháp chế, Sở Tư pháp với các cơ quan, đơn vị có liên quan trong việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính và công bố, công khai TTHC thuộc phạm vi, thẩm quyền quản lý.        

          IV. CÔNG TÁC CHUẨN BỊ CÁC DỰ ÁN LUẬT TRÌNH QUỐC HỘI VÀ   ĐỀ ÁN TRÌNH THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

         1. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

         Nhằm thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam, đồng thời để đáp ứng kịp thời yêu cầu khách quan của thực tiễn hôn nhân và gia đình trong giai đoạn hiện nay, Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan chủ trì soạn thảo đã tổ chức tổng kết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, soạn thảo và trình Chính phủ xem xét, cho ý kiến về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình. Nhiều vấn đề lớn dư luận xã hội quan tâm đã được xem xét, nghiên cứu và đề xuất sửa đổi, bổ sung trong dự thảo Luật như:

- Về áp dụng tập quán trong hôn nhân và gia đình, lĩnh vực hôn nhân và gia đình là lĩnh vực mà ở đó, tập quán rất đa dạng và giữ vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan. Do đó, Bộ Tư pháp đề xuất áp dụng tập quán trong hôn nhân và gia đình với hai nội dung cơ bản: Thứ nhất, tập quán được áp dụng trong hai trường hợp: (1) khi không có quy định của pháp luật và các bên không có thỏa thuận khác; (2) khi đã có quy định của pháp luật và các bên tự nguyện thực hiện các quyền, nghĩa vụ về hôn nhân và gia đình theo tập quán. Thứ hai, các điều kiện để áp dụng tập quán về hôn nhân và gia đình bao gồm: (1) không vi phạm các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình và không vi phạm quy định về bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 2, khoản 2 Điều 4 của Luật HN-GĐ; (2) tập quán được áp dụng là tập quán được đông đảo người dân sinh sống trên cùng địa bàn, cùng dân tộc, cùng tôn giáo thừa nhận và chỉ có hiệu lực áp dụng trên địa bàn, trong nội bộ cộng đồng có tập quán đó. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ra Nghị quyết về việc công nhận những tập quán được áp dụng trên địa bàn đảm bảo điều kiện trên.

- Đề xuất sửa quy định tuổi kết hôn của nam giới từ 20 tuổi xuống đủ 18 tuổi. Theo đó, sửa quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình theo hướng nam, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn. Việc quy định như vậy để đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giới, đồng thời đam bảo sự đồng bộ, thống nhất với quy định của Bộ luật dân sự, pháp luật tố tụng dân sự và một số lĩnh vực hoạt động xã hội khác (như Luật Nghĩa vụ quân sự).

- Về vấn đề kết hôn giữa những người cùng giới tính, đề xuất bãi bỏ quy định về cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính được quy định tại khoản 5 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, kế thừa quy định về kết hôn được hiểu là “việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định về pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn” (khoản 2 điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình, Nhà nước không thừa nhận việc kết hôn giữa những người cùng giới tính nhưng quy định việc giải quyết hậu quả của việc chung sống như vợ chồng giữa người cùng giới tính thì được áp dụng các quy định về giải quyết hậu quả việc nam, nữ chung sống như vợ, chồng.

- Đề xuất bổ sung chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Tuy nhiên, đề phòng ngừa, ngăn chặn việc mang thai hộ vì mục đích thương mại, việc  cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được thực hiện trên cơ sở quy định chặt chẽ, cụ thể về người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ; hình thức pháp lý của việc mang thai hộ; quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên; trách nhiệm pháp lý (dân sự, hành chính, hình sự) của các bên...

- Đề xuất mở rộng thẩm quyền giải quyết việc thuận tình ly hôn. Việc giải quyết thuận tình ly hôn sẽ được thực hiện theo hướng đảm bảo thuận lợi về thủ tục cho người dân và tôn trọng ý chí tự nguyện của vợ, chồng trong việc chấm dứt hôn nhân. Theo đó, vợ chồng có thể lựa chọn giải quyết việc thuận tình ly hôn của mình tại cơ quan đăng ký hộ tịch hoặc tại Tòa án nếu đảm bảo đủ 3 điều kiện: (a) Vợ chồng thuận tình ly hôn; (b) Không có tranh chấp về việc nuôi con chưa thành niên, hoặc cấp dưỡng hoặc chăm sóc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, con không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình và (c) Không có tranh chấp về tài sản. Các trường hợp không đáp ứng được 03 điều kiện nêu trên thì được giải quyết theo thủ tục tố tụng tại Tòa án.  

- Bổ sung các quy định về ly thân, để phù hợp với tình hình thực tiễn hôn nhân, gia đình tại Việt Nam, Bộ Tư pháp đề xuất bổ sung quy định về quyền yêu cầu ly thân của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, đồng thời quy định về hiệu lực của ly thân, quy định về chấm dứt ly thân và quy định về giải quyết yêu cầu ly hôn của vợ chồng trong thời kỳ ly thân.

2. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công chứng:

Tiếp tục thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng về hoàn thiện thể chế và hoạt động công chứng theo hướng xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động này, đồng thời để từng bước chuyên nghiệp hóa hơn nữa hoạt động của đội ngũ công chứng viên, Bộ Tư pháp đã chủ trì soạn thảo và trình Chính phủ xem xét, cho ý kiến đối với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật công chứng với một số vấn đề cần quan tâm sau:

- Xác định giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Để nâng cao giá trị pháp lý của văn bản công chứng, trách nhiệm của công chứng viên và của các bên tham gia hợp đồng, dự thảo Luật quy định hợp đồng đã được công chứng có giá trị thi hành đối với các bên tham gia ký kết. Đối với bản dịch, bản dịch đã được công chứng được công nhận và có giá trị sử dụng chính thức trước các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Mở rộng thẩm quyền công chứng bản dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng. Theo đó, cùng với việc chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác, thẩm quyền công chứng bản dịch cũng được giao cho công chứng viên. Công chứng viên công chứng bản dịch và chịu trách nhiệm liên đới với người dịch về nội dung bản dịch đó.

- Giới hạn tuổi hành nghề của công chứng viên. Để phù hợp với thông lệ một số nước trên thế giới, dự thảo Luật quy định công chứng viên chỉ được hành nghề đến 65 tuổi, không phân biệt nam, nữ.

          3. Dự án Luật Hộ tịch

          Bộ Tư pháp đang tiếp tục hoàn thiện, trình Quốc hội xem xét, thông qua dự án Luật hộ tịch với nhiều điểm mới, mang tính đột phá, tiến tới hiện đại hóa công tác quản lý nhà nước về dân cư.

- Về việc cấp số định danh cá nhân, việc sử dụng số định danh cá nhân vào quản lý dân cư sẽ là nền tảng, là bước đột phá để phát triển và sử dụng thẻ công dân điện tử, mở rộng các ứng dụng để tích hợp thông tin của nhiều ngành trên một thẻ, giảm giấy tờ cá nhân. Bên cạnh những lợi ích mang lại cho công dân, đối với các cơ quan hành chính nhà nước, việc sử dụng công cụ số định danh sẽ giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và giảm thiểu chi phí cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc khai thác dữ liệu, giảm tải được khối lượng hồ sơ, giấy tờ hiện đang lưu trữ tại cơ quan hành chính nhà nước.

- Giao thẩm quyền cho Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký toàn bộ các việc hộ tịch. Bộ Tư pháp đề xuất giao thẩm quyền đăng ký tất cả các loại việc hộ tịch cho UBND cấp xã, đồng thời quy định chức danh Hộ tịch viên để trực tiếp thực hiện công tác đăng ký hộ tịch tại UBND cấp xã. Mô hình đăng ký hộ tịch này được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới và cũng đã từng được áp dụng ở nước ta trong thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

- Xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử sẽ tạo nhiều thuận lợi cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, đảm bảo kịp thời, chính xác việc tra cứu, khai thác thông tin; phục vụ đắc lực cho việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Dự thảo Luật quy định theo hướng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử được xây dựng nhằm quản lý, tra cứu thông tin hộ tịch của cá nhân, phục vụ giải quyết thủ tục hành chính trực tuyến của cá nhân, cơ quan, tổ chức và đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước; cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử là cơ sở dữ liệu ngành, được thiết lập trên cơ sở tin học hóa công tác đăng ký hộ tịch, là bộ phận cấu thành của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

          4. Đề án thí điểm thực hiện cơ chế kiểm soát tập trung việc ban hành Thông tư, Thông tư liên tịch của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ

         Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, để xử lý những hạn chế, tồn tại hiện nay về việc xây dựng, ban hành Thông tư, Thông tư liên tịch của các bộ, cơ quan ngang b, đồng thời tạo cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp đang chủ trì, phối hợp với một số bộ, ngành liên quan xây dựng “Đề án thí điểm thực hiện cơ chế kiểm soát tập trung việc ban hành Thông tư, Thông tư liên tịch của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ”.

Nội dung cơ bản của Đề án là quy định các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện việc xây dựng Thông tư, Thông tư liên tịch theo đúng quy trình hiện hành; Bộ Tư pháp có trách nhiệm thực hiện việc thẩm định dự thảo các Thông tư, Thông tư liên tịch thuộc phạm vi, đối tượng của Đề án. Cơ chế này được thực hiện đối với các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức, mà trước mắt là thực hiện thí điểm đối với việc xây dựng, ban hành các Thông tư, Thông tư liên tịch quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các Nghị định của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính. Sau khi đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện cơ chế thí điểm, sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép thực hiện ở phạm vi rộng hơn./.


[1] 10 dự thảo nghị định khác đang được các bộ, ngành chỉnh lý theo ý kiến Hội đồng thẩm định.

[2]  Hiện nay đã có 03 Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính được ban hành, gồm: Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê; Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ