I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Nhân dân phản ánh: Ngày 19-3, tại Hà Nội, đã khai mạc kỳ họp họp thứ ba Hội đồng Lý luận T.Ư. Đồng chí Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo T.Ư, Chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư chủ trì kỳ họp. Đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành ở T.Ư và các thành viên Hội đồng Lý luận T.Ư dự kỳ họp.
Trong hai ngày làm việc, Hội đồng Lý luận T.Ư và các đại biểu tiến hành hai hội thảo khoa học về đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai và an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay để tư vấn với Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chấp hành T.Ư về việc soạn thảo các đề án: đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai; tổng kết việc thi hành và bổ sung, sửa đổi Hiến pháp năm 1992, định hướng sửa đổi Luật Đất đai năm 2003; một số vấn đề an sinh xã hội giai đoạn 2012 - 2020..., thiết thực phục vụ Hội nghị Trung ương 5.
2. Báo Quân đội nhân dân phản ánh: Ngày 19-3, tại Hà Nội, Cục Kiểm soát thủ tục hành chính (Văn phòng Chính phủ) đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ rà soát quy định, thủ tục hành chính với sự tham dự của các cán bộ làm công tác kiểm soát thủ tục hành chính của 24 bộ, ngành, 22 địa phương và Liên đoàn Luật sư Việt Nam.
Nội dung được tập huấn trong đợt này bao gồm cách thức triển khai kế hoạch rà soát, quy trình và cách thức rà soát theo phương pháp sơ đồ hóa, rà soát theo biểu mẫu, tính toán chi phí tuân thủ của 24 nhóm thủ tục, quy định “nhạy cảm”, được coi là “nút thắt” cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đây là các nhóm thủ tục hành chính, quy định liên quan đến những vấn đề như: Mã số công dân; đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hoạt động doanh nghiệp thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện; tạo thuận lợi hóa thương mại và vận tải; thuế; kinh doanh bảo hiểm, chứng khoán; xuất khẩu hàng hóa các mặt hàng nông, lâm, thủy, hải sản, giầy da và dệt may; lĩnh vực chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư xây dựng và vận hành khai thác nhà máy điện; hoạt động điện lực….
3. Báo Đầu tư chứng khoán có bài Ở nhà thu nhập thấp lo khó sổ đỏ. Bài báo phản ánh: Trong một kết luận của Thanh tra Chính phủ về nhà ở xã hội mới đây, hầu hết nhà ở xã hội đã xây vượt quá giới hạn 6 tầng theo quy định của Luật Nhà ở. Kết luận này khiến nhiều người dân trước đó từng rất vất vả mua được nhà ở xã hội như ngồi trên đống lửa. Họ lo ngại căn hộ có nguy cơ không thể làm được giấy chứng nhận quyền sở hữu sau này.
Theo kết luận của Thanh tra Chính phủ ngày 1/2/2012 về trách nhiệm của Bộ Xây dựng trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về nhà ở, hiện cả nước có 42 dự án nhà ở xã hội được khởi công xây dựng, với tổng mức đầu tư khoảng 4.500 tỷ đồng, tổng diện tích là 907.000 m2, đáp ứng chỗ ở cho khoảng 73.200 người. Tuy nhiên, hiện nay mới có 1.714 căn hộ hoàn thành, với diện tích sàn là 95.000 m2, chỉ đạt 1% so với kế hoạch. Đặc biệt, kết luận của Thanh tra Chính phủ cũng nêu rõ, hiện có nhiều dự án nhà ở cho người thu nhập thấp xây vượt quá quy định giới hạn 6 tầng, vi phạm Luật Nhà ở (theo Khoản a và b, Mục 1, Điều 47, Luật Nhà ở Việt Nam). Kết luận thanh tra cũng chỉ ra 2 dự án đã đi vào sử dụng là dự án Ngô Thì Nhậm, Hà Đông (Hà Nội) và dự án Nguyễn Tri Phương (Đà Nẵng) đã vi phạm giới hạn chiều cao theo Luật Nhà ở.
Ngay sau khi kết luật của Thanh tra Chính phủ được công bố rộng rãi, nhiều hộ dân mua nhà tại dự án Ngô Thì Nhậm rất lo ngại dự án vi phạm Luật Nhà ở thì người mua khó làm được giấy chứng nhận sở hữu. Rất nhiều hộ dân đã mua nhà tại nhiều dự án nhà ở xã hội khác như Đặng Xá, Sài Đồng cũng rất lo lắng, vì nếu căn cứ vào Luật Nhà ở, thì những dự án này cũng vi phạm giới hạn chiều cao. Vì vậy, việc làm chứng nhận quyền sở hữu căn hộ sau này có thể khó khăn.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo điện tử Chính phủ có bài Đánh giá tổng thể các văn bản điều chỉnh lĩnh vực hợp tác với nước ngoài về pháp luật. Bài báo phản ánh: Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng giao Bộ Tư pháp rà soát, đánh giá tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực hợp tác với nước ngoài về pháp luật; xây dựng đề án tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác hợp tác với nước ngoài về pháp luật. Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp phối hợp với các cơ quan liên quan, Ủy ban công tác về các tổ chức phi chính phủ nước ngoài nghiên cứu việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 78/2008/NĐ-CP.
Các Bộ, ngành, cơ quan liên quan chủ động triển khai thực hiện các nhiệm vụ được quy định trong Nghị định 78/2008/NĐ-CP đảm bảo nâng cao hiệu quả công tác hợp tác với nước ngoài về pháp luật.
2. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Một kiểu hành dân quá đáng. Bài báo phản ánh: Một vụ án dân sự rất đơn giản, chứng cứ rõ ràng, TAND hai cấp đã xét xử, tuyên buộc phía bị đơn phải trả lại món nợ trên 300 triệu đồng cho nguyên đơn. Ngỡ rằng chân lý thuộc về lẽ phải, bản án sẽ sớm được thi hành, thế nhưng suốt gần bốn năm nay, một phụ nữ đã 60 tuổi cứ phải “chạy theo” hết cơ quan thi hành án đến TAND TP.Đà Lạt để nhận về nỗi thất vọng, bất bình cực độ.
Nguyên đơn trong vụ này là bà Đỗ Thị Kiếm Hiệp và con gái là Nguyễn Đỗ Thảo Trang, trú 30/1 Hai Bà Trưng, TP.Đà Lạt (Lâm Đồng). Theo nội dung vụ án, chị Thảo Trang và bà Nguyễn Thị Kim Dung (trú số 10 Nhà Chung, phường 3, TP.Đà Lạt) là bạn của nhau. Bà Dung thường qua lại nhà chị chơi và gọi bà Kiếm Hiệp là mẹ. Lợi dụng mối quan hệ này, bà Dung cùng chồng là ông Mai Văn Châu hỏi vay tiền mẹ con bà Hiệp, hứa trả trong thời gian ngắn, thỏa thuận miệng lãi suất 1% để mẹ con bà Hiệp cải thiện đời sống. Mặc dù không có sẵn tiền, nhưng vì nhiều lần nghe bà Dung than thở, phần vì muốn giúp đỡ chỗ thân tình, mẹ con bà Hiệp vay mượn người thân và anh em họ hàng đưa cho bà Dung tổng cộng 310 triệu đồng, có viết giấy vay nhận nợ. Tuy nhiên, đến hẹn, bà Dung không trả nợ và còn có ý tránh mặt mẹ con bà Hiệp. Mẹ con bà Hiệp khởi kiện bà Dung ra tòa án để đòi lại tiền. Tại các bản án của TAND TP.Đà Lạt và TAND tỉnh Lâm Đồng vào năm 2008 và tháng 3-2009 đều tuyên buộc bà Dung phải trả cho mẹ con bà Hiệp tổng số tiền trên 310 triệu đồng (trong đó có 23 triệu đồng là tiền lãi - 1%/tháng).
Mẹ con bà Hiệp sau đó có đơn xin được thi hành án. Ngày 20-4-2009, lãnh đạo cơ quan Thi hành án Đà Lạt ra quyết định thi hành bản án trên và giao cho chấp hành viên Cao Xuân Thành thụ lý hồ sơ vụ việc. Nhưng mãi đến ngày 23-12-2009, ông Thành mới có buổi làm việc với hai bên là bà Hiệp và bà Dung. Bà Hiệp và người thân bức xúc kể lại: để có “được” buổi làm việc này, bà Hiệp đã phải nhiều lần đến cơ quan thi hành án, tìm gặp ông Thành năn nỉ để được thi hành án, thậm chí là phải “biết điều” với ông Thành. Mặc dù gia đình bà Hiệp rất khó khăn, mấy mẹ con chỉ trông vào một quán cà phê cóc, bản thân bà Hiệp lại mắc đủ thứ bệnh, thường xuyên bị chồng và người thân dằn vặt vì đã đưa tiền cho bà Dung. Trong khi bà Dung khá giả, có hai căn nhà lầu, một căn kinh doanh khách sạn vừa mới bán, một căn kinh doanh internet, tiệm cầm đồ. Nhưng nghe bà Dung năn nỉ cùng lời khuyên của ông Cao Xuân Thành, bà Hiệp ký vào “Biên bản thỏa thuận”, chấp nhận cho bà Dung một phần tiền gốc và lãi, chỉ lấy 250 triệu đồng, bà Dung trả làm ba lần. Thế nhưng, đến hết hạn ngày 9-3-2010, bà Dung vẫn không chịu thi hành án mà còn thách thức bà Hiệp. Chấp hành viên Cao Xuân Thành cũng tránh mặt bà Hiệp khiến nhiều lần bà đến cơ quan thi hành án đều không gặp được ông. Quá bất bình, bà Hiệp nộp đơn yêu cầu hủy biên bản thỏa thuận, thay đổi chấp hành viên và đơn đề nghị tịch thu, kê biên căn nhà số 10 Nhà Chung của bà Dung với mong muốn bản án sớm được thi hành.
Chấp hành viên Cao Thị Thanh Thủy sau đó thụ lý hồ sơ vụ thi hành án. Thế nhưng, chờ mãi bà Hiệp cũng chẳng được cơ quan thi hành án thông báo gì. Sau năm lần bảy lượt đến cơ quan thi hành án, bà Hiệp được chấp hành viên hướng dẫn làm đơn... thôi không xin tịch thu kê biên căn nhà số 10 Nhà Chung của bà Dung, mà chờ kết quả thi hành bản án của bà Dung với bà Trâm ở huyện Đức Trọng (Lâm Đồng). Cán bộ thi hành án giải thích rằng, do bà Trâm nợ bà Dung một khoản tiền, cơ quan Thi hành án Đà Lạt ủy thác cho Thi hành án huyện Đức Trọng thi hành bản án của bà Trâm với bà Dung và sẽ lấy tiền trả cho mẹ con bà Hiệp. Lại một thời gian dài chờ đợi, quá sốt ruột, mẹ con bà Hiệp hỏi Thi hành án huyện Đức Trọng thì té ngửa khi biết bà Trâm không có tài sản để thi hành án với bà Dung. Bà Hiệp đến cơ quan Thi hành án Đà Lạt thắc mắc thì được hướng dẫn làm lại đơn xin tịch thu, kê biên căn nhà của bà Dung. Rồi sự việc tiếp tục rơi vào im lặng. Mãi đến ngày 20-8-2010, sau nhiều lần gửi đơn khiếu nại, bà Hiệp được chấp hành viên Cao Thị Thanh Thủy yêu cầu làm lại đơn xin tịch thu, kê biên căn nhà của vợ chồng bà Dung kèm “điệp khúc”... chờ!
Nhận đơn đề nghị can thiệp cùng nỗi bất bình, bức xúc chính đáng của mẹ con bà Hiệp, PV Báo CATP nhiều lần làm việc với cơ quan Thi hành án Đà Lạt thì được biết, căn nhà này vợ chồng bà Dung đang thế chấp vay Ngân hàng Sacombank với số tiền trên 1 tỷ đồng. Ngày 9-9-2010, cơ quan này ra quyết định kê biên căn nhà tại địa chỉ số 10 Nhà Chung của vợ chồng bà Dung để đảm bảo việc thi hành án. Bà Hiệp chờ tiếp ba tháng nữa thì được cơ quan Thi hành án Đà Lạt mời làm việc, yêu cầu “tự nguyện” đóng 5 triệu đồng để cơ quan chức năng đo vẽ lại hiện trạng căn nhà số 10 Nhà Chung do công trình xây dựng sai so với giấy phép xây dựng và thiết kế. Bà Hiệp chấp nhận đóng, những mong được thi hành bản án. Thế nhưng, hai tháng sau đó, cơ quan thi hành án cho biết phải ngưng việc kê biên, phát mãi tài sản căn nhà của vợ chồng bà Dung để thi hành án cho bà Hiệp vì lý do ông Nguyễn Văn Dương (trú tại Hà Nội) - bố đẻ bà Dung khởi kiện bà Dung đến TAND TP.Đà Lạt bằng vụ kiện “Yêu cầu công nhận tài sản thuộc sở hữu chung”. Theo đó, căn nhà có bốn tầng thì chỉ có tầng trệt và tầng 1 thuộc sở hữu của bà Dung, còn hai tầng trên là tài sản của ông Dương tạo ra (!?). Thẩm phán Huỳnh Châu Thạch thụ lý vụ kiện tháng 12-2010, nhưng mãi đến nay vẫn chưa giải quyết. Bà Hiệp khiếu nại TAND TP.Đà Lạt thì được ông Chánh án TAND TP.Đà Lạt cho biết: vụ án chậm giải quyết có nguyên nhân khách quan (chưa làm việc được với người khởi kiện - ông Nguyễn Văn Dương - PV) và thừa nhận “vụ án trên đã quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định của pháp luật” và yêu cầu thẩm phán chủ tọa phiên tòa khẩn trương giải quyết vụ án.
3. Báo Kinh tế nông thôn có bài Sóc Trăng: Án đã tuyên, tiền đã có, sao khó thi hành?. Bài báo phản ánh: Phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm đều tuyên buộc vợ chồng ông Ngô Văn Đực và bà Võ Thị Tuyết Diễm ngụ ấp Hòa Nhờ A, xã Hòa Tú 2 (Mỹ Xuyên - Sóc Trăng) phải trả cho ông Huỳnh Thanh Dững, ngụ ấp Cổ Cò, xã Ngọc Tố (Mỹ Xuyên) số tiền 1,203 tỉ đồng và lãi suất theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Cơ quan thi hành án dân sự (THADS) đã kê biên và bán đấu giá tài sản của ông Đực, bà Diễm nhưng chưa giao lại cho ông Dững...
Theo ông Dững, từ năm 2005 đến năm 2008, ông Đực và bà Diễm thỏa thuận mua thức ăn nuôi tôm sú của ông và đã nợ 1,203 tỉ đồng nhưng không trả. Để đòi tiền, ông Dững khởi kiện đến TAND huyện Mỹ Xuyên. Phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm đều tuyên buộc vợ chồng ông Đực và bà Diễm phải trả cho ông Dững số tiền trên và lãi suất theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Cơ quan THADS huyện Mỹ Xuyên đã kê biên và bán đấu giá tài sản của ông Đực, bà Diễm được 1,55 tỉ đồng. Tuy nhiên, số tiền này hiện vẫn do Chi cục THADS huyện Mỹ Xuyên giữ mà chưa giao cho ông Dững theo phán quyết của TAND các cấp. Lý giải về điều này, Chi cục THADS huyện Mỹ Xuyên cho rằng: Vợ chồng ông Đực và bà Diễm không chỉ nợ tiền ông Dững mà còn nợ nhiều người khác và cũng đã khởi kiện ra tòa nên số tiền này phải trả cho những người khác nữa. Do vậy mới chậm trễ trong thi hành án cho ông Dững. Thì ra, sau khi ông Dững khởi kiện, được TAND huyện Mỹ Xuyên thụ lý hồ sơ, người thân của ông Đực, bà Diễm cũng đồng loạt khởi kiện ông, bà ra tòa để đòi nợ số tiền bằng với số tiền ông Đực, bà Diễm nợ ông Dững. Hòa giải tại TAND huyện Mỹ Xuyên, vợ chồng ông Đực thừa nhận nợ và đồng ý trả nợ cho những người này. Vì vậy, THADS huyện Mỹ Xuyên vin vào đó để trì hoãn trả tiền cho ông Dững. Ông Dững nói: “Thực chất của vụ hòa giải là thỏa thuận ngầm giữa anh em trong gia đình ông Đực nhằm phân tán số tiền phải trả nợ cho tôi”.
Trả lời về vấn đề này, bà Sơn Thị Pheng, Thẩm phán TAND tỉnh Sóc Trăng nói rõ: “Các quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các chủ nợ với vợ chồng ông Đực đều thực hiện sau bản án sơ thẩm”. Từ đó có thể thấy, cơ quan THADS huyện Mỹ Xuyên chưa thi hành án cho ông Dững là không thuyết phục. Cùng quan điểm đó, Vụ 10 (Viện Kiểm sát nhân dân tối cao) đã có Văn bản số 3831, ngày 09/12/2010 nêu rõ: “Số tiền thu được từ việc phát mãi khối tài sản (của vợ chồng ông Đực-PV), sau khi trừ các chi phí khác về thi hành án sẽ được ưu tiên thanh toán cho ông Huỳnh Thanh Dững, số còn lại thanh toán cho các trường hợp khác”.
Thế nhưng, ngày 22/7/2011, ông Dương Công Lập, Chánh án TAND tỉnh Sóc Trăng có công văn gửi Cục THADS Sóc Trăng với nội dung: “Ông Huỳnh Thanh Dững khởi kiện ông Ngô Văn Đực và bà Võ Thị Tuyết Diễm về “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” mua thức ăn nuôi tôm sú không có thế chấp tài sản. TAND huyện Mỹ Xuyên đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm ông Đực và bà Diễm chuyển dịch nhà, đất để đảm bảo cho giai đoạn thi hành án. Xét thấy, việc TAND huyện Mỹ Xuyên kê biên nhà đất chỉ nhằm mục đích cấm tẩu tán tài sản. Còn việc giao dịch dân sự nếu có thế chấp tài sản để mua nợ, thì người nhận tài sản thế chấp được ưu tiên thanh toán nợ theo khoản 3, Điều 47 Luật THADS. Nếu không có thế chấp tài sản thì không được ưu tiên thi hành án về khoản nợ”. Vậy là văn bản của TAND tỉnh Sóc Trăng “đá ngược” với văn bản của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, ngược với phán quyết của chính TAND tỉnh Sóc Trăng.
Trả lời khiếu nại của ông Dững, ngày 09/11/2011, ông Nguyễn Hoàng Xuân, Phó cục trưởng Cục THADS Sóc Trăng cho biết: “Cục THADS Sóc Trăng đã có công văn xin ý kiến chỉ đạo nghiệp vụ của Tổng cục THADS-Bộ Tư pháp; khi có văn bản chỉ đạo, Cục THADS tỉnh sẽ chỉ đạo Chi cục THADS Mỹ Xuyên giải quyết”.
Hóa ra, bản án dù đã có hiệu lực pháp luật nhưng cơ quan THADS huyện Mỹ Xuyên và tỉnh Sóc Trăng lại viện lý do “phải xin ý kiến chỉ đạo của cấp cao hơn”. Phải chăng có khuất tất gì trong việc này?