Điểm tin báo chí sáng ngày 29 tháng 7 năm 2009

29/07/2009
Trong buổi sáng ngày 29/7/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Nhân dân phản ánh: Ngày 28-7, tại Văn phòng T.Ư Ðảng, Khối thi đua các cơ quan Ðảng T.Ư tổ chức sơ kết phong trào thi đua sáu tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ từ nay đến cuối năm 2009.

Ðồng chí Trần Thị Hà, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Thi đua - Khen thưởng (TÐ-KT) T.Ư, Trưởng Ban TÐ-KT T.Ư, tới dự và chỉ đạo hội nghị. Các Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng TÐ-KT, các cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng của 12 đơn vị trong Khối: Ban Dân vận T.Ư, Ban Ðối ngoại T.Ư, Ban Tổ chức T.Ư, Ban Tuyên giáo T.Ư, Ủy ban Kiểm tra T.Ư, Báo Nhân Dân, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Tạp chí Cộng sản, Ðảng ủy Khối các cơ quan T.Ư, Ðảng ủy Khối các doanh nghiệp T.Ư, Văn phòng T.Ư Ðảng, tới dự.

Thời gian qua, các cơ quan Ðảng T.Ư đã đẩy mạnh các phong trào thi đua, chủ động cùng Chính phủ tham mưu, đề xuất các phương án để BCH T.Ư Ðảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư T.Ư Ðảng và các Ban của Ðảng lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành đất nước tập trung thực hiện quyết liệt các giải pháp lớn nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, bước đầu tạo được đà tăng trưởng. Các cơ quan đã tham mưu giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình công tác năm 2009, chương trình kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc tỉnh ủy, thành ủy... Toàn Khối tiếp tục tổ chức và triển khai các Nghị quyết của T.Ư Ðảng, hoàn thành hơn 20 đề án trọng điểm được Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao; hoàn thành nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cho gần 26 nghìn cán bộ, tổ chức có hiệu quả các hoạt động đối ngoại của Ðảng...

Các đại biểu đã phát biểu ý kiến, đề xuất nhiều biện pháp đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước của đội ngũ cán bộ, công chức trong khối...

Ðồng chí Lê Hữu Nghĩa, Ủy viên T.Ư Ðảng, Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Trưởng Khối thi đua phát biểu ý kiến nhấn mạnh: Thời gian tới, các cơ quan trong Khối tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác thi đua năm 2009, đẩy mạnh công tác tư tưởng, tăng cường đoàn kết, thống nhất về nhận thức và hành động của cán bộ, công chức trong Khối thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan. Thực hiện hiệu quả Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", xây dựng kế hoạch tổ chức Ðại hội thi đua yêu nước, thi đua hướng tới Ðại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội; thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các nhóm giải pháp lớn của Chính phủ. Tổ chức tuyên truyền và triển khai thực hiện các Nghị quyết của T.Ư Ðảng; đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để cung cấp cơ sở khoa học cho BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đề ra các chủ trương, đường lối, quyết sách quan trọng của Ðảng và Nhà nước, đặc biệt là góp phần tổng kết, bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011 - 2020), chuẩn bị các nội dung chỉ đạo Ðại hội Ðảng các cấp và văn kiện trình Ðại hội XI của Ðảng.

Báo cũng phản ánh: Sáng 28-7, tại Hà Nội, Tổng liên đoàn Lao động (LÐLÐ) Việt Nam tổ chức kỷ niệm trọng thể 80 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28-7-1929 - 28-7-2009) và đón nhận Huân chương Sao Vàng lần thứ hai.

Tới dự, có các đồng chí: Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư; Lê Ðức Anh, nguyên Chủ tịch nước; Nguyễn Văn An, nguyên Chủ tịch Quốc hội; Trương Vĩnh Trọng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư T.Ư Ðảng, Phó Thủ tướng Chính phủ; Ðại tướng Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Công an; các đồng chí Bí thư T.Ư Ðảng: Ngô Văn Dụ, Chánh Văn phòng T.Ư Ðảng; Ðại tướng Lê Văn Dũng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QÐND Việt Nam; Hà Thị Khiết, Trưởng ban Dân vận T.Ư; đồng chí Nguyễn Thị Doan, Ủy viên T.Ư Ðảng, Phó Chủ tịch nước; Huỳnh Ðảm, Ủy viên T.Ư Ðảng, Chủ tịch Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam; nhiều đồng chí nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư T.Ư Ðảng; lãnh đạo các bộ, ban, ngành, đoàn thể ở T.Ư và Hà Nội; các cán bộ lão thành cách mạng; đại biểu 23 tổ chức công đoàn các nước và quốc tế cùng hơn 1.000 đại biểu các tầng lớp nhân dân, cán bộ công đoàn... Tổng Bí thư Nông Ðức Mạnh gửi lẵng hoa chúc mừng kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam. Ðồng chí Nguyễn Phú Trọng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, dự và phát biểu ý kiến.

Ðọc diễn văn tại lễ kỷ niệm, đồng chí Ðặng Ngọc Tùng, Ủy viên T.Ư Ðảng, Chủ tịch Tổng LÐLÐ Việt Nam, sau khi ôn lại quá trình thành lập và phát triển của Công đoàn Việt Nam, đã nêu rõ: 80 năm qua là chặng đường lịch sử đầy khó khăn nhưng cũng rất vẻ vang của Công đoàn Việt Nam. Dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, Công đoàn Việt Nam đã phát huy vai trò, thực hiện tốt chức năng của mình, góp phần to lớn vào thắng lợi cách mạng Việt Nam. Nhìn lại chặng đường 80 năm đã qua, chúng ta tự hào về những đóng góp to lớn của tổ chức Công đoàn Việt Nam trong lịch sử đấu tranh cách mạng hào hùng của dân tộc ta, tự hào về Ðảng Cộng sản Việt Nam, Ðảng của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, một lòng, một dạ chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân... Mặc dù phía trước còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng với truyền thống vẻ vang của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam, của Ðảng và của dân tộc ta, đã từng vượt qua biết bao khó khăn, thử thách trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất định chúng ta sẽ đưa ngọn cờ cách mạng Việt Nam đến đích thắng lợi. Công đoàn Việt Nam sẽ mãi mãi vì lợi ích của Ðảng, của dân tộc và người lao động.

Thay mặt đội ngũ công nhân, viên chức, lao động (CNVC-LÐ) và trí thức cả nước, PGS, TS Nguyễn Xuân Thắng, Phó Chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và đại biểu Phan Nghĩa Linh, công nhân Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thống Nhất phát biểu ý kiến, bày tỏ niềm tự hào của đội ngũ CNVC-LÐ đối với Công đoàn Việt Nam thời gian qua và nguyện tiếp tục phấn đấu, cống hiến nhiều hơn nữa để có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Thay mặt Ðảng, Nhà nước, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng trao Huân chương Sao Vàng lần thứ hai, phần thưởng cao quý của Ðảng, Nhà nước tặng Tổng LÐLÐ Việt Nam và phát biểu ý kiến biểu dương những thành tích to lớn của phong trào CNVC-LÐ và hoạt động công đoàn cả nước trong thời gian qua. Ðồng chí nhấn mạnh, 80 năm qua là chặng đường đấu tranh oanh liệt và vẻ vang của giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh; đó cũng là quá trình xây dựng, tôi luyện và trưởng thành rất đáng tự hào của Công đoàn Việt Nam. Vượt qua mọi khó khăn, thử thách, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, Công đoàn cũng luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, luôn trung thành với lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và lợi ích của người lao động, đoàn kết, vận động, tập hợp CNVC-LÐ đi đầu trong mọi phong trào hành động cách mạng, ra sức phấn đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc và vì hạnh phúc của nhân dân; góp phần tô thắm thêm lịch sử vẻ vang của dân tộc…

2. Báo Điện tử Đài tiếng nói Việt Nam phản ánh: chiều ngày 28/7/2009 tại tỉnh Bắc Giang, Văn phòng Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang tổ chức công bố bộ thủ tục hành chính chung áp dụng tại cấp huyện và xã (đây là tỉnh đầu tiên công bố bộ thủ tục hành chính chung áp dụng tại cấp huyện và xã).

Tại lễ công bố, lãnh đạo tỉnh Bắc Giang trao cho đại diện 10 huyện và xã trong tỉnh bộ thủ tục hành chính chung áp dụng cho huyện và xã, trong đó ở cấp huyện có 14 lĩnh vực với 314 thủ tục cần thiết, cấp xã có 12 lĩnh vực và 180 thủ tục cần thiết.

Đối với từng xã, con số này có thể tăng hoặc giảm, nhưng quan trọng là dù ở đâu cũng đều thống nhất thủ tục cần thiết đáp ứng nhu cầu cải cách hành chính.

Hiện nay, số thủ tục hành chính đang thực hiện tại Bắc Giang hơn 2.151 thủ tục. Sau lễ công bố này, tỉnh chỉ đạo các ban ngành chức năng rà soát lần cuối 1.650 thủ tục để công bố vào ngày 20/8 tới theo đúng kế hoạch của Ban chỉ đạo Đề án 30 của Chính phủ.

Từ kinh nghiệm của Bắc Giang, Ban chỉ đạo Đề án 30 của Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các ban, ngành, thành phố hoàn thành công bố các thủ tục hành chính giai đoạn 1 trước  ngày 20/8.

3. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam phản ánh: UBND thành phố Hà Nội vừa có công điện khẩn về triển khai các biện pháp cấp bách phòng chống dịch cúm A/H1N1 trong trường học.

Theo đó, UBND thành phố yêu cầu Sở GD&ĐT Hà Nội chỉ đạo các đơn vị giáo dục thuộc Sở thành lập Ban Chỉ đạo phòng chống dịch cúm A/H1N1 và xây dựng kế hoạch phòng chống dịch cúm A/H1N1. Tổ chức tập huấn, tuyên truyền cho cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên trong trường nâng cao kiến thức và chủ động áp dụng các biện pháp phòng chống dịch. Đồng thời, chuẩn bị cơ sở vật chất cho việc lập khu vực cách ly và triển khai bệnh viện dã chiến tại các trường khi dịch cúm A/H1N1 xảy ra. Các đơn vị giáo dục cần liên hệ với ngành Y tế để được phối hợp, hỗ trợ triển khai công tác chuyên môn y tế tại các trường.

UBND thành phố cũng yêu cầu các trường tổ chức tổng vệ sinh trong trường học trước khi học sinh tựu trường.

Đối với Sở Y tế, UBND thành phố yêu cầu chỉ đạo Trung tâm Y tế dự phòng thành phố; Trung tâm Y tế 29 quận, huyện, thị xã phối hợp và hỗ trợ cho cán bộ Y tế các trường học giám sát phát hiện sớm những trường hợp nghi cúm A/H1N1 tại trường; cách ly, xử lý triệt để ổ dịch không để lây lan rộng ra cộng đồng.

Bên cạnh đó, Sở phải chỉ đạo các bệnh viện phối hợp với các trường xây dựng phương án triển khai bệnh viện dã chiến ngay tại trường học. Chuẩn bị đầy đủ thuốc, trang thiết bị, dịch truyền...để sẵn sàng điều trị cho học sinh nhiễm cúm A/H1N1.

Các Trung tâm Truyền thông, Giáo dục sức khoẻ có nhiệm vụ tăng cường truyền thông về các biện pháp phòng chống dịch cúm A/H1N1 cho các trường để cán bộ, giáo viên và học sinh, sinh viên chủ động, tự giác áp dụng các biện pháp phòng chống dịch.

Theo công điện, UBND thành phố yêu cầu UBND các quận, huyện, thị xã phải chỉ đạo Phòng GD&ĐT hướng dẫn các trường thành lập Ban chỉ đạo phòng chống dịch cúm A/H1N1 và xây dựng kế hoạch phòng chống dịch trong các trường học. Bên cạnh đó chỉ đạo Phòng Y tế phối hợp với Trung tâm Y tế và các bệnh viện triển khai các biện pháp phòng chống dịch cúm A/H1N1 trong trường học. Chỉ đạo Phòng Văn hoá-Thông tin tăng cường truyền thông trên đài phát thanh quận, huyện, thị xã; đài truyền thanh các xã, phường, thị trấn về các biện pháp phòng chống dịch cúm A/H1N1. Đặc biệt phối hợp với các trường học tổ chức tuyên truyền các biện pháp phòng chống dịch cho giáo viên, học sinh trong trường.

Công điện cũng nêu rõ: các Sở, ngành, đoàn thể khác trên địa bàn thành phố theo nhiệm vụ được phân công phối hợp chặt chẽ với Sở GD&ĐT, Sở Y tế triển khai các biện pháp phòng chống dịch trong trường học

II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài: ““Hành trình” gian nan lấy lại... 8 lượng vàng!”. Theo báo, hơn hai năm kể từ ngày tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TPHCM tuyên án, ông Nguyễn Văn Tho (Nguyen Paul Van, SN 1938, trú tại Hoa Kỳ) vẫn mỏi mòn chờ... nhận lại khoản tiền tương đương 8 lượng vàng SJC.  Do không còn đủ sức khỏe, tiền bạc để về nước theo đuổi vụ kiện, ông Tho ủy quyền cho bà Đặng Thị Lệ Hoa (SN 1957, ngụ BR-VT) tiếp tục gởi đơn khiếu nại.

Tại tòa soạn Báo CATP, bà Hoa trình bày vụ việc như sau: trước đây, ông Tho được người thân bảo lãnh sang định cư tại Hoa Kỳ. Sau một thời gian sinh sống, do tuổi già và cảm thấy không hợp với cuộc sống xứ lạ, ông mong muốn trở về an cư tại quê nhà.

Tháng 7-2002, trong một dịp về quê thăm bà con họ hàng, ông Tho mua một căn nhà gắn liền với hơn 224m2 đất tại 36S thôn Long Sơn, thị trấn Long Điền, huyện Long Điền, tỉnh BR-VT của vợ chồng ông Trần Văn Nhàn và bà Võ Thị Chín với giá 8 lượng vàng bằng giấy tay. Sau đó, ông bỏ ra khoảng 60 triệu đồng sửa chữa căn nhà và xây thêm nhà cấp bốn trong phạm vi diện tích đất nói trên.

Vì chưa lo xong thủ tục hồi cư về Việt Nam nên ông Tho nhờ ông Phan Văn Tốt (em rể) trông coi nhà cửa với điều kiện mỗi tháng ông Tho phải trả lương và gạo cho ông Tốt. Theo đơn khiếu nại gởi cho tòa soạn Báo CATP, ông Tho cho biết vì lòng tham nên sau này ông Tốt muốn chiếm dụng tài sản trên của ông.

Sau nhiều phiên xét xử tại TAND tỉnh BR-VT, mọi việc vẫn chưa ngã ngũ. Ông Tho tiếp tục làm đơn kháng cáo gởi TAND tối cao. Ngày 19-6-2009, tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TPHCM đã tuyên án: xác định giao dịch “mua bán nhà đất” giữa ông Tho và vợ chồng ông Nhàn là vô hiệu. Giao toàn bộ nhà đất cho cơ quan thi hành án dân sự (THADS) tỉnh BR-VT để thi hành án (THA) và đấu giá theo qui định của pháp luật. Số tiền thu được sẽ được giải quyết như sau: trả cho ông Tho bằng tiền VN tương đương 8 lượng vàng SJC. Số tiền còn lại từ việc đấu giá sẽ nộp sung công quỹ nhà nước.

Do quá mệt mỏi và tốn kém mỗi lần về nước để giải quyết vụ kiện, ngay sau khi có bản án, ông Tho đã ủy quyền cho bà Hoa tiếp tục những thủ tục về sau.

Khi có đơn yêu cầu THA của đại diện nguyên đơn và thu đủ khoản lệ phí THA, THADS tỉnh BR-VT đề nghị trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh thông báo bán đấu giá nhà đất nói trên.

Qua ba lần thông báo bán đấu giá với giá khởi điểm lần lượt như sau: 293.181.050 đồng, 282.691.500 đồng, 280.117.885 đồng, nhưng không có người đến giao dịch. Vụ việc “dậm chân tại chỗ”.

Quá nóng lòng, bà Hoa lại gởi đơn nhiều nơi đề nghị cơ quan chức năng tỉnh BR-VT nhanh chóng giải quyết theo bản án của TAND tối cao.

Về việc xử lý tài sản kê biên không bán được, THADS tỉnh có mời ông Tho lên và đề nghị ông nhận lại nhà đất trên. Theo đó, tương ứng với số tiền bán đấu giá, trừ ra một khoản tương đương 8 lượng vàng, ông Tho phải trả thêm số tiền còn lại để sung vào công quỹ nhà nước. Nhưng ông Tho không đồng ý vì “sợ” phải mua lại nhà, đất lần nữa.

Sau đó, căn nhà và diện tích đất nói trên tiếp tục được đưa ra bán đấu giá với số tiền 429.109.345 đồng. Điều nghịch lý là với số tiền ở ba phiên đấu giá trước đã không có ai đăng ký mua, nay lại nâng giá quá cao như thế, thì mong muốn được nhận lại 8 lượng vàng của ông Tho quả thật còn rất xa vời!

Quá bức xúc, ngày 1-11-2008, ông Tho đã mượn tiền mua vé máy bay trở về VN để trực tiếp liên hệ làm việc.

Ngày 13-11-2008, Trưởng THADS tỉnh gởi công văn cho biết hiện cơ quan có hướng đề xuất là xác lập quyền sở hữu nhà nước đối với nhà đất trên và xuất ngân sách chi trả cho ông Tho số tiền tương đương 8 lượng vàng SJC. Nhưng đến nay Sở Xây dựng tỉnh BR-VT chưa có công văn trả lời.

Nhà, đất không có người đăng ký mua, THADS tỉnh cũng đành “bó gối ngồi chờ”, trong khi đó ông Tho, bà Hoa phải chạy vạy gởi đơn khắp nơi xin được sớm “chiếu cố”.

Ngày 4-6-2009, Sở Xây dựng tỉnh BR-VT có công văn số 1204/SXD-QLN nêu rõ: nhà đất số 36S thôn Long Sơn, thị trấn Long Điền, huyện Long Điền không thuộc diện nhà đất do sở quản lý. Vì vậy sở không có ý kiến về các giao dịch dân sự nêu trên.

Bao nhiêu công sức của ông Tho, bà Hoa bấy lâu nay đều “trôi sông trôi biển”. Đã hơn 2 năm, điều mà ông Tho nhận được chỉ là sự mệt  mỏi và thất vọng. Nhà, đất không bán được đồng nghĩa với việc số tiền tương đương 8 lượng vàng của ông Tho cũng bị “chôn chặt” ở đó. Vụ việc sẽ còn kéo dài đến bao giờ? “Hành trình” gian nan để lấy lại số tiền trên của một ông già bao giờ mới kết thúc? Câu trả lời này rất mong  cơ quan hữu trách tỉnh BR-VT nhanh chóng giải đáp. 

Báo cũng có bài: “Nhiều gia đình tán gia bại sản”. Theo báo, lợi dụng những người nghèo thiếu hiểu biết về pháp luật hoặc đang lâm vào cảnh túng bấn, nhiều đối tượng chuyên về “tín dụng đen” đã bày ra thủ đoạn cho vay lãi suất thấp nhưng sau đó lợi dụng những bản hợp đồng đã ký chiếm đoạt tài sản, nhà cửa của các nạn nhân.

Những năm gần đây, các đường dây “tín dụng đen” đã thay đổi phương thức, thủ đoạn trục lợi. Không thu tiền lãi cao ngất ngưởng, không truy sát nạn nhân như thường thấy, giờ đây những kẻ cho vay nặng lãi chỉ cần dựa vào kẽ hở của pháp luật và sự thiếu hiểu biết của người vay để chỉ trong thời gian ngắn thâu tóm toàn bộ tài sản của nạn nhân một cách nhanh, gọn. Sau khi yêu cầu người vay ký các thủ tục vay tiền, các đối tượng cho vay buộc người vay phải ký vào một hợp đồng ủy quyền. Nạn nhân đa số là dân nghèo, ít hiểu biết pháp luật, đang rất cần tiền nên thường không có thời gian suy nghĩ, đắn đo. Chính vì thế, họ đâu ngờ rằng mình vừa ký bán căn nhà (hoặc miếng đất) của mình cho chúng với giá rẻ bèo so với giá trị thực tế.

Ngày 18-3-2009, vợ chồng ông Trần Thế Dũng (ngụ P. Phạm Ngũ Lão, Q1) làm thủ tục vay 50 triệu đồng của ông Đặng Việt C. (Giám đốc Công ty Đại Cường Ph., trụ sở đặt tại P3QGV). Tài sản để đảm bảo cho việc vay tiền trên là căn hộ chung cư trên đường Trần Hưng Đạo, P. Phạm Ngũ Lão, Q1 của vợ chồng ông Dũng. Tại Phòng công chứng số 6, sau khoảng một giờ vào “làm việc” với công chứng viên, ông C. gọi ông Dũng vào... quán cà phê trước cổng phòng công chứng ký hợp đồng! Sau khi nhận 50 triệu đồng tiền vay và giao toàn bộ giấy chủ quyền căn hộ của mình cho ông C., về nhà, ông Dũng kiểm tra lại hợp đồng thì tá hoả khi nội dung hợp đồng thế chấp đã trở thành “hợp đồng ủy quyền” cho ông C. được “toàn quyền chuyển nhượng, bán, tặng, cho, thế chấp căn hộ. Ông C. có quyền mang căn nhà trên đi thế chấp, cầm cố mà không hạn chế số lần vay, số tiền vay. Nếu không thanh toán được nợ, dẫn tới tài sản bị phát mãi thì vợ chồng ông Dũng không được khiếu nại; trong phạm vi ủy quyền, ông C. được quyền lập văn bản, ký tên trên các giấy tờ liên quan và thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy định?! Ông Dũng thiểu não: “Ký một bản hợp đồng với hàng loạt danh mục chỉ trong vài phút thì làm sao đọc hết cho được”. Ông Dũng cho biết, do không được công chứng viên giải thích về quyền lợi và nghĩa vụ nên việc ký hợp đồng diễn ra nhanh chóng. Vài giờ sau khi phát hiện sự việc, vợ chồng ông Dũng yêu cầu ông C. đến phòng công chứng để trả tiền và ký hủy hợp đồng, nhưng ông C. đã đem giấy tờ nhà đất của vợ chồng ông Dũng thế chấp cho bà Bồ Thị V. (ngụ P1QTB) để vay 300 triệu đồng, gấp sáu lần số tiền vợ chồng ông Dũng đã vay. Ngày 6-4-2009, ông C. hẹn vợ chồng ông Dũng đến gặp bà V. tại trụ sở Công ty Thái S. để làm việc. Tại buổi làm việc, vợ chồng ông Dũng yêu cầu ông C. trả lại giấy tờ nhà đất và xin được hoàn trả số tiền 50 triệu đồng đã vay. Ông C. không chấp nhận vì đã đem giấy tờ đi thế chấp. Bà V. tuyên bố, muốn lấy lại giấy tờ nhà đất thì phải trả 300 triệu đồng.

Bà V. còn tỏ thái độ thách thức, sẵn sàng đưa vụ việc ra trước pháp luật nếu thấy cần, nhằm uy hiếp tinh thần vợ chồng ông Dũng. Bà V. cho rằng, bà được ông C. ủy quyền giải quyết mọi việc liên quan đến vợ chồng ông Dũng.

Chưa dừng lại ở đó, sau khi vợ chồng ông Dũng gởi đơn tố cáo, ông C. đã được cơ quan điều tra Công an Q.3 mời lên làm việc nhưng người đàn ông này đã bất hợp tác và tiếp tục mang giấy tờ nhà đất đi thế chấp cho một người tên Hương ở Q. Tân Phú để vay thêm 500 triệu đồng nữa.

 

Trong khoảng thời gian trên, ông C. cũng bị một nạn nhân khác là ông Trần Văn Hòa (SN 1959, ngụ P. Linh Đông, Q. Thủ Đức) tố cáo về hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tài sản. Tại đơn tường trình gửi cơ quan chức năng của ông Hòa, ngày 16-4-2009, do phải trả nợ ngân hàng, ông Hòa đã vay của ông C. 500 triệu đồng với lãi suất 2%/tháng. Tài sản ông Hòa cầm cố cho ông C. là giấy tờ căn nhà diện tích 169m2 tại KP7, P. Linh Đông, Q. Thủ Đức. Cũng như trường hợp ông Dũng, ông C. đã dùng thủ đoạn “ép” ông Hòa làm giấy ủy quyền công chứng để vay tiền trả nợ. Sau đó, nhiều người đã tìm đến nhà ông Hòa “thông báo” việc ông C. mang giấy tờ nhà đất đi vay nóng lấy 1,5 tỷ đồng. Quá sợ hãi, ông Hòa nhiều lần mang tiền đến công ty ông C. để trả nhưng đều không gặp được. Thật ra, trong hợp đồng vay mượn giữa ông C. và ông Hòa có quy định rất rõ: “...Trong vòng một tháng, ông Hòa không trả được nợ thì ông C. có quyền quyết định tài sản là căn nhà số 106/6”. Ông Hoà cho rằng đây là thủ đoạn kéo dài thời gian của ông C. khi cố tình tạo cớ để chiếm đoạt căn nhà của ông.

Trên đây chỉ là hai trong số nhiều trường hợp người vay trở thành nạn nhân của dịch vụ “tín dụng đen”. Theo trình bày của các nạn nhân thì thời gian qua, mặc dù đã tố cáo hành vi của ông C. nhưng tiếc là do sự việc được phân tách ra thành các vụ riêng lẻ và những người có trách nhiệm chưa nắm hết được vấn đề nên cách giải quyết chung chung là kiện ra toà dân sự.

Theo một luật sư thuộc Đoàn luật sư TP. Hồ Chí Minh, thực chất những trường hợp trên là hợp đồng vay mượn tài sản, nhưng được giả cách thành hợp đồng ủy quyền mua bán nhà đất nên phần lớn người vay tiền bị thiệt. Một trong những cơ sở để khẳng định dấu hiệu bất thường là không ai có thể cầm cố, bán một căn nhà của mình trị giá hàng tỷ đồng chỉ với chưa đầy 1/2 giá trị thực của nó. Không những thế, liên tiếp nhiều nạn nhân bị mắc bẫy thủ đoạn trên do cùng một đối tượng gây ra và hậu quả tác động đến đời sống xã hội là rất nghiêm trọng thì cần phải xử lý nghiêm minh.

Cách đây hơn một năm, tại huyện Cần Giờ cũng xảy ra trường hợp tương tự. Người vay vì thiếu hiểu biết đã sa vào bẫy của đường dây “tín dụng đen”. Toà án sơ thẩm tuyên buộc người vay phải thi hành hợp đồng đã ký nhưng đã gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân địa phương, dư luận báo chí và đặc biệt là chính quyền địa phương đã có công văn thể hiện chính kiến của mình.

Qua bài viết này, rất mong cơ quan chức năng (mà cụ thể là cơ quan điều tra) cần nhanh chóng tiếp nhận, xử lý những vụ việc trên theo đúng bản chất thực của nó bởi nếu không, hàng chục, hàng trăm người nghèo như trường hợp ông Dũng, ông Hoà... sẽ tiếp tục trở thành nạn nhân của “tín dụng đen”. Điều cần cảnh báo là hiện nay, các đối tượng, tổ chức “tín dụng đen” như trên thường phô trương thanh thế của mình bằng cách quảng cáo trên các tờ báo, tạp chí lớn.

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài: “Quận Thủ Đức, TP.HCM: Giành lại quyền nuôi con”. Theo báo, ngày 06/5/2009 Báo đã phản ánh vụ tranh chấp quyền nuôi trẻ bốn tuổi giữa bà Trần Thị Kim Hạnh (ngụ phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, TP.HCM) với bà K. (thị trấn Chư Ty, huyện Đức Cơ, Gia Lai). Đến nay, vụ việc này vẫn chưa được giải quyết.

Năm 2005, con gái bà K. đến nhà bà Hạnh sinh con. Ít ngày sau, do con bà K. bỏ lại trẻ nên bà Hạnh đã đứng ra làm giấy khai sinh cho trẻ với tư cách là mẹ. Cuối tháng 2-2009, bà K. đưa trẻ lên Gia Lai chơi. Lấy lý do “để công an địa phương không làm khó dễ”, bà K. đề nghị bà Hạnh đưa khai sinh của trẻ, đồng thời viết giấy chuyển quyền nuôi con. Sau đó, bà K. không chịu giao trả trẻ, viện lẽ đã đưa cho bà Hạnh 30 triệu đồng...

Phản đối việc bà K. đưa tiền, bà Hạnh đã nộp nhiều đơn yêu cầu các cơ quan chức năng xem xét, buộc bà K. phải giao trả trẻ cho bà. Cho rằng vụ việc chỉ đơn thuần là tranh chấp dân sự, Công an huyện Đức Cơ đã chuyển hồ sơ đến UBND thị trấn Chư Ty. Ngày 7-4, do hòa giải không thành nên UBND thị trấn đã chuyển hồ sơ đến TAND huyện.

Ngày 21-4, Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai xác định đây là tranh chấp về xác định cha mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND theo khoản 4 Điều 27 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nhưng đến ngày 18-5, TAND huyện Đức Cơ đã ra thông báo trả lại đơn kiện của bà Hạnh vì “không thuộc thẩm quyền”.

Trao đổi với phóng viên sáng 24-7, bà Nguyễn Thị Kim Thoa, Chánh án TAND huyện Đức Cơ, giải thích: “Do vụ việc phức tạp nên chúng tôi đã chậm gửi thông báo trả lại đơn kiện của bà Hạnh. Thực ra đây là vụ tranh chấp quyền nuôi trẻ giữa bà Hạnh là mẹ hợp pháp của trẻ với bà K. là bà ngoại của trẻ chứ không phải là tranh chấp trong lĩnh vực hôn nhân gia đình thuộc điều luật mà Sở Tư pháp đã viện dẫn. Do tranh chấp này không được Bộ Luật tố tụng dân sự quy định nên tòa án không có cơ sở để thụ lý”.

Ông Nguyễn Hữu Thiện, Trưởng phòng Tư pháp huyện Đức Cơ, phân trần: “Lúc đầu, chúng tôi chắc mẩm vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa nhưng sau nhiều cuộc họp bàn thì chúng tôi mới biết mình đã nhầm. Cũng có ý kiến nếu không xử lý dân sự thì chuyển sang xử lý hình sự. Nhưng do bà Hạnh đã tự nguyện viết giấy chuyển giao con cho bà K. nên đâu thể xử lý hình sự bà K. Chúng tôi đã báo cáo vụ việc đến Sở Tư pháp tỉnh và Bộ Tư pháp cả tháng nay nhưng vẫn chưa nhận được chỉ đạo cụ thể. Trước mắt, chúng tôi đã động viên, thuyết phục bà K. trả lại con cho chị Hạnh nhưng bà ấy không đồng ý...”.

Bà Dương Thị Tú Mỹ, Trưởng phòng Bảo vệ và chăm sóc trẻ em - Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh Gia Lai, cho biết: “Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đứa trẻ trên có quyền được chung sống với cha mẹ. Sau khi nhận được nhiều đơn khiếu nại của bà Hạnh, Sở đã nhiều lần họp với huyện và tỉnh để bàn cách đưa trẻ về với mẹ nhưng chưa có kết quả. Sở đã gửi văn bản đề nghị các cơ quan sớm giải quyết và đang chờ phản hồi”.

Luật sư Phạm Quốc Hưng (Đoàn luật sư TP.HCM) phân tích: Về pháp lý, bà Hạnh là mẹ hợp pháp của trẻ (giấy khai sinh thể hiện rõ điều này). Theo Điều 36 Luật Hôn nhân và gia đình, bà Hạnh có quyền chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Giấy chuyển quyền nuôi con mà bà Hạnh đã làm không có giá trị pháp lý vì quyền nuôi dưỡng không phải là một quyền có thể chuyển giao. Do đó, bà ngoại đứa trẻ không thể căn cứ vào giấy này để giữ trẻ. Lại nữa, theo Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình thì bà ngoại chỉ có quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục chứ không có quyền nuôi dưỡng trẻ khi mà trẻ còn cha mẹ.

Rõ ràng là hành vi giữ trẻ của bà K. đã vi phạm pháp luật. Công an huyện có thể mời bà K. đến giải thích, yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật này và giao trả con cho người mẹ. Nếu bà K. vẫn cố tình không chấm dứt hành vi trái pháp luật đó, công an huyện có thể xem xét, truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em theo Điều 120 Bộ luật Hình sự. Theo điều luật này, người chiếm đoạt trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào có thể bị phạt tù từ ba đến mười năm.

Báo cũng có bài: Bình Định: 14 năm không thể thi hành án”. Theo báo, trước đây, tại Bình Định, ông Nguyễn Đưa cùng đồng phạm thường xuyên mua hàng điện tử nhập lậu bằng đường biển, đưa vào nội địa bán lại kiếm lời. Tháng 7-1993, tàu hàng của ông Đưa đã bị đội tuần tra Công an tỉnh Bình Định bắt quả tang khi đang vận chuyển một số lượng lớn hàng điện tử lậu.

Ông Đưa cùng bảy đồng phạm bị TAND tỉnh Bình Định phạt lần lượt từ hai đến bốn năm tù về tội buôn lậu (ông Đưa bị phạt ba năm tù treo). Về phần xử lý vật chứng, tòa tuyên tịch thu sung công quỹ chiếc tàu BĐ 0243-TS2 của ông Đưa. Sau khi các bị cáo kháng cáo xin giảm án, tháng 4-1995, Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng đã tuyên y án sơ thẩm.

Từ tháng 3-1994, để đảm bảo cho việc thi hành án, VKSND tỉnh Bình Định đã ra lệnh kê biên tạm giữ chiếc tàu của ông Đưa và giao tài sản cho người đại diện hợp pháp tạm bảo quản, chờ xử lý. Tuy nhiên, ngày 9-3-1994, khi cơ quan điều tra đến thực hiện lệnh kê biên chiếc tàu thì mới biết chiếc tàu đã bị ông Đưa bán cho người khác với giá chín triệu đồng.

Về phần mình, sau khi tiếp nhận bản án có hiệu lực thi hành, giữa năm 2005, trưởng Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định đã ra quyết định thi hành đối với khoản tịch thu chiếc tàu của ông Đưa. Đến lúc chấp hành viên đi xác minh tài sản thì kết quả cũng y như lúc cơ quan điều tra thực hiện lệnh kê biên. Không chịu bó tay, chấp hành viên xác minh mở rộng thêm địa chỉ của người mua nhưng cũng chỉ thu về con số không.

Trước việc không còn chiếc tàu để thi hành án, tháng 11-1997, Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định họp liên ngành tố tụng theo hướng cho ông Đưa nộp tiền bằng giá trị chiếc tàu để thi hành án (ngay sau đó ông Đưa đã nộp trước 6,5 triệu đồng vào ngân sách). Song song đó, Thi hành án dân sự tỉnh cũng có văn bản đề nghị TAND tối cao xem xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm.

Chấp thuận đề nghị của Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định, đầu năm 1998, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đưa vụ án ra xét xử theo trình tự giám đốc thẩm. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là dù biết chiếc tàu của ông Đưa không còn, tòa vẫn... giữ nguyên bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Bình Định với nội dung tịch thu sung công chiếc tàu.

Đến lúc này, việc thi hành bản án xem như rơi vào ngõ cụt vì nếu Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định tổ chức thi hành đúng như bản án đã tuyên thì không thể thực hiện được do chiếc tàu không còn. Còn nếu Thi hành án dân sự tỉnh đồng ý cho ông Đưa nộp tiếp số tiền còn lại (2,5 triệu đồng) vào ngân sách theo tinh thần cuộc họp liên ngành tố tụng của tỉnh trước đó thì lại trái với bản án tòa tuyên.

Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định chỉ còn một cách là ra quyết định đình chỉ thi hành án. Đến đây thì Thi hành án dân sự tỉnh lại gặp một cái vướng là theo quy định, trường hợp của ông Đưa không thuộc trường hợp được đình chỉ thi hành án. Vì thế đã 14 năm nay, vụ thi hành án này vẫn đang bị tồn đọng, không có lối ra.

3. Báo Dân trí có bài: “Bảo hiểm nghề công chứng viên: Quá cấp thiết!”. Theo báo, Trên thế giới các công chứng viên khi hành nghề buộc phải mua bảo hiểm nghề nghiệp bởi đối tượng chịu thiệt hại trực tiếp nếu công chứng viên mắc phải sơ xuất chính là người dân. Còn ở Việt Nam nhiều công chứng viên không mua hoặc không muốn mua.

“Tôi đã đi công chứng nhiều hợp đồng, giao dịch có giá trị lớn. Nếu có sơ suất trong việc công chứng khiến tôi bị thiệt hại thì lúc ấy chỉ còn biết trông chờ vào bồi thường của bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với công chứng viên… ” - đó là tâm sự của chị Nguyễn Thị Liên - khách hàng tại Văn phòng công chứng Hà Nội.

 Chị Liên làm trong lĩnh vực ngân hàng nên hàng tháng chị thường xuyên phải đến đây công chứng các hợp đồng, giao dịch cần thiết cho khách hàng của ngân hàng. Trong đó, có rất nhiều hợp đồng, giao dịch có giá trị kinh tế lớn, lên tới hàng tỷ đồng, thậm chí hơn thế.

 “Bởi vậy, việc tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp công chứng viên có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với văn phòng công chứng mà cả đối với chúng tôi” - chị nói.

Cũng như chị Liên, chị Thu Hằng, nhân viên Ngân hàng TMCP Hàng Hải chi nhánh Cầu Giấy cho hay: công chứng là dịch vụ pháp lý nên trước hết yêu cầu đúng pháp luật là tiên quyết. Khách hàng đến công chứng sẽ yên tâm khi biết công chứng viên - người sẽ thực hiện việc công chứng cho mình - đã được mua bảo hiểm nghề nghiệp.

 Thống kê sơ bộ sau 1 năm đi vào hoạt động, Văn phòng công chứng Hà Nội đã thực hiện 4.600 giao dịch công chứng giấy tờ trong đó có hơn 1/4 giấy tờ liên quan đến đất đai, chứng thực tài sản. Điều này cho thấy ngoài việc chứng thực bản sao thông thường, những giao dịch mang tính dân sự, tài chính ngày một chiếm tỷ trọng cao. Tuy nhiên với hành lang pháp lý còn nhiều bất cập như hiện nay thì khả năng xảy ra rủi ro khi thực hiện công chứng là khó tránh khỏi.

Giả sử hợp đồng chuyển nhượng BĐS đã được công chứng nhưng nội dung đó trái luật mà công chứng viên không phát hiện được (do sơ suất hay do nhận thức pháp lý hạn chế) hiện theo luật công chứng thì văn phòng công chứng có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại này cho khách hàng. Còn đối với văn phòng công chứng đã tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp công chứng viên, khoản bồi thường này sẽ do công ty bảo hiểm chi trả.

 Rõ ràng, việc mua bảo hiểm sẽ đem lại lợi ích cho cả khách hàng và công chứng viên. Việc này không chỉ được áp dụng trong các văn phòng công chứng tư mà cả phòng công chứng nhà nước.

 Tuy nhiên, do còn thiếu những hướng dẫn cụ thể nên các tổ chức hành nghề công chứng, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và các Sở Tư pháp đã gặp không ít lúng túng trong việc triển khai mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp công chứng. 

 Hiện trên cả nước vẫn còn hàng trăm tổ chức hành nghề công chứng chưa mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp công chứng (Hà Nội mới có 5 văn phòng công chứng tư mua bảo hiểm). Thiết nghĩ, các cơ quan quản lý nhà nước về công chứng cần có những hướng dẫn kịp thời việc mua bảo hiểm nghề nghiệp công chứng, nhằm bảo đảm an toàn cho công chứng viên khi hành nghề cũng như quyền lợi của khách hàng.

4. Báo Thanh niên phản ánh: ngày 28/7/2009, tin từ Tỉnh ủy Bình Thuận cho biết, UB Kiểm tra Tỉnh ủy vừa quyết định cảnh cáo về mặt Đảng đối với ông Trần Văn Xê - Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh do mắc nhiều sai phạm:

Giả mạo chữ ký người khác thành lập 2 doanh nghiệp để được Nhà nước cho thuê đất và chấp thuận đầu tư dự án; chuyển nhượng và mua bán trái phép hàng chục ha đất, làm giả hồ sơ để được cấp sổ đỏ; mua bán đất đai, nhà cửa không đăng ký kinh doanh; lợi dụng chức vụ yêu cầu công chứng viên công chứng các hợp đồng bảo lãnh trái pháp luật...

Đồng thời, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận đã chỉ đạo thu hồi sổ đỏ do UBND TP Phan Thiết cấp cho bà Lê Thị Phương Anh (Phó trưởng phòng Tư pháp TP Phan Thiết và là vợ của ông Xê). Bà Phương Anh đã cùng bà Nguyễn Phương Thảo (cán bộ Văn phòng UBND TP Phan Thiết) giả mạo chữ ký để được cấp hơn 58.000m2 đất và sau đó được nhận hơn 2 tỉ đồng tiền đền bù. Chủ tịch UBND tỉnh đã yêu cầu công an điều tra làm rõ những sai phạm này, nếu nghiêm trọng sẽ khởi tố trước pháp luật.

5. Báo Lao động có bài: Dân khổ vì chỉ đạo thi hành án”. Theo báo, liên tục nhiều lần, cứ cận đến ngày chuẩn bị thi hành án cưỡng chế giao tài sản cho một Việt kiều thì đột ngột lại có văn bản "chặn" lại kéo dài thời gian.
Năm 2000, bà Cao Thị Kim Hồng (Việt kiều Úc) hợp tác với em ruột mình là bà Cao Thị Kim Hà thuê nhà tại số 232 đường Ba Cu - TP.Vũng Tàu để mở tiệm bánh. Sau đó, bà Hồng đã bỏ 110.000USD mua căn nhà trên. Nhưng do thời điểm này chưa có chính sách cho Việt kiều đứng tên sở hữu nhà đất tại Việt Nam, nên bà Hồng đã nhờ bà Hà đứng thay.
Khi Nhà nước có chủ trương cho Việt kiều đầu tư kinh doanh tại Việt Nam được đứng tên nhà đất, bà Hồng đề nghị bà Hà chuyển tên chủ sở hữu căn nhà do chính mình bỏ tiền mua, nhưng bà Hà không chịu trả, phải đưa ra toà phán xử. Qua 2 phiên sơ thẩm và phúc thẩm, TAND tỉnh đều tuyên bà Hồng được quyền sử dụng đất, nhà số 232 Ba Cu.
Đến thời hạn, gia đình bà Hà không tự nguyện giao trả nhà nên bà Hồng buộc phải làm đơn và Thi hành án (THA) dân sự TP.Vũng Tàu đã ra quyết định số 319, ngày 8.12.2008 buộc bà Hà phải giao trả nhà đất.
 
Tháng 4.2009, Viện KSND tỉnh có công văn số 219 yêu cầu hoãn thi hành án trong 90 ngày để có thời gian xem xét vụ kiện theo thủ tục giám đốc thẩm. Một tháng sau, tháng 5.2009, Phó Viện trưởng Viện KSND tỉnh Ngô Đức Thành ra văn bản 258 kết luận: Không có cơ sở để báo cáo kháng nghị.
Trên cơ sở đó, ngày 10.6, THA đã ra quyết định cưỡng chế vào ngày 23.6, buộc bà Hà và ông Lương (chồng bà Hà) giao tài sản. Tuy nhiên ngày 12.6, bà Hà - ông Lương có đơn xin hoãn cưỡng chế vào ngày này để họ có thời gian di dời tài sản, máy móc thiết bị sản xuất bánh và sẽ tự nguyện giao trả vào ngày 15.7. Xét tình lý, cơ quan chức năng đã ra quyết định hoãn thi hành án.
Bất ngờ ngày 22.6, ông Trương Đức Nhật - Phó Trưởng ban Pháp chế HĐND tỉnh - ra văn bản số 246 đề nghị cho tạm hoãn THA với lý do: TAND giao tài sản cho bà Hồng, trong đó có hơn 165m2 đất nông nghiệp là chưa đúng quy định pháp luật về sử dụng đất nông nghiệp. Đề nghị Viện KSND tỉnh nghiên cứu kháng nghị bản án giám đốc thẩm.
Ngày 7.7, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hồ Văn Niên ra công văn số 72 khá gay gắt: Yêu cầu Trưởng THA tỉnh trực tiếp chỉ đạo tổ chức thi hành bản án phúc thẩm và giao nhiệm vụ cho GĐ Sở Tư pháp đôn đốc giám sát chặt chẽ việc thực hiện bản án của chấp hành viên và cơ quan THA.
Đến phút này, mọi chuyện tưởng đã êm xuôi? Cơ quan chức năng BR-VT lẫn người chờ giao trả tài sản lại lần nữa "té ngửa" khi nhận được văn bản số 46 ngày 13.7 của TAND Tối cao yêu cầu hoãn THA trong 90 ngày và chuyển hồ sơ vụ án lên cho TAND Tối cao xem xét.

Trên đây là điểm báo sáng ngày 29/7/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.

Phòng Tổng hợp - Văn phòng Bộ./.



File đính kèm