Trong buổi sáng ngày 19/02/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam phản ánh: Sáng18/2, tại Hà Nội, Hội đồng tư vấn đặc xá tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác đặc xá năm 2009. Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Vĩnh Trọng, Chủ tịch Hội đồng tư vấn đặc xá chủ trì Hội nghị.
Báo cáo của Hội đồng tư vấn đặc xá nêu rõ, ngay sau khi có Quyết định về đặc xá năm 2009 của Chủ tịch nước và hướng dẫn của Hội đồng tư vấn đặc xá, các cơ quan ban ngành liên quan đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc công tác đặc xá. Chỉ tính riêng đợt đặc xá nhân dịp Tết Nguyên đán và kỷ niệm 79 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2), trên 15.400 hồ sơ đề nghị được đặc xá và 15.140 phạm nhân đã được Chủ tịch nước tha tù trước thời hạn, nhiều nhất từ trước đến nay.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Chiều 18-2, tại Hà Nội, đồng chí Nguyễn Văn Chi, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, đã chủ trì phiên họp lần thứ 23 của Ủy ban. Tại phiên họp này, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thảo luận và tham mưu cho Ban Bí thư thành lập các đoàn kiểm tra theo chương trình kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Theo kế hoạch, ở trung ương sẽ thành lập chín đoàn kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong chi tiêu, mua sắm tài sản và sử dụng ngân sách nhà nước; tổ chức các đoàn đi công tác nước ngoài; tiếp nhận, quản lý, phân bổ nguồn tiền ủng hộ thiên tai, người nghèo và các hoạt động từ thiện; quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản ở một số bộ, ngành trung ương và địa phương.
Theo chương trình, Ban chỉ đạo kiểm tra sẽ báo cáo kết quả kiểm tra với Ban Bí thư trong quý III-2009.
3. Báo Hà Nội mới phản ánh: Ngày 17/2, Bộ Tài chính nhận được công văn đăng ký tăng giá bán xăng của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam và 5 doanh nghiệp đầu mối khác. Sau khi có sự thống nhất giữa Bộ Công thương và Bộ Tài chính, chiều 18/2, Cục quản lý giá (Bộ Tài chính) đã có công văn hỏa tốc số 1844 gửi các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối về vấn đề trên.
Theo đó, đối với giá xăng, dầu diezel, dầu mazút, trước mắt đề nghị các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối tiếp tục giữ ổn định giá bán xăng, dầu diezel, dầu mazút, trong nước như hiện nay và tiếp tục theo dõi diễn biến xăng dầu thế giới để có giải pháp xử lý phù hợp.
Sở dĩ các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối trình phương án tăng giá xăng là bởi trong thời gian qua dù giá dầu thô giảm nhưng giá dầu thành phẩm lại tăng lên. Việt Nam hiện là nước nhập khẩu thành phẩm 100% xăng dầu. Giá xăng dầu bán lẻ phải tính theo giá thành phẩm chứ không phải theo giá dầu thô. Vì thế, các doanh nghiệp bị lỗ mặt hàng xăng. Theo tính toán, trừ chi phí đầu vào của một lít xăng gồm 25% thuế nhập khẩu, 10% thuế tiêu thụ đặc biệt, 10% VAT, phí xăng dầu 1.000 đồng một lít, trả nợ ngân sách tạm bù lỗ 1.000 đồng, quỹ bình ổn giá 500 đồng và các chi phí khác, doanh nghiệp lỗ ít nhất là 500 đồng/lít xăng.
4. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Ngày 18-2, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Thường trực Chính phủ đã họp bàn các giải pháp triển khai hỗ trợ các dự án kích cầu đầu tư, xuất khẩu, duy trì sản xuất và chính sách hỗ trợ công nhân mất việc làm.
Thảo luận về các giải pháp cụ thể để thực hiện tốt chủ trương kích cầu đầu tư, các thành viên Chính phủ kiến nghị cần rà soát, bổ sung các đối tượng trong tháng 2 này đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước; đồng thời ứng trước nguồn vốn đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp và hạ tầng giao thông. Triển khai phân bổ và thực hiện nhanh các nguồn trái phiếu Chính phủ và tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh.
Đề xuất các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh sản suất kinh doanh và hỗ trợ lao động mất việc làm, các thành viên Chính phủ cho rằng, đối tượng bị ảnh hưởng lớn nhất của khủng hoảng kinh tế là các làng nghề và doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn (khoảng 11 triệu người). Do vậy Chính phủ cần đặc biệt quan tâm đến đối tượng này, đặc biệt là tiếp cận nhanh nguồn vốn vay ưu đãi và hỗ trợ xuất khẩu. Theo đó, Chính phủ cần hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp khi ký hợp đồng xuất khẩu, xúc tiến thương mại, kích cầu tiêu dùng trong nước, vay vốn ưu đãi trợ cấp mất việc làm, hỗ trợ đào tạo chuyển nghề...
Các thành viên Chính phủ thừa nhận, công tác thống kê hiện nay yếu, dẫn đến việc triển khai các chủ trương chính sách chậm và không sát với điều kiện thực tiễn. Do vậy, mỗi bộ, ngành phải chịu trách nhiệm về công tác dự báo thống kê của ngành mình.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: UBND TPHCM vừa ban hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2009 đến 2012 trên địa bàn TPHCM.
Mục tiêu của chương trình đặt ra là đến năm 2012, có 90% người dân được tuyên truyền pháp luật chung và các văn bản pháp luật chuyên ngành có liên quan đến từng nhóm dân cư, 95% người sử dụng lao động được tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật có liên quan đến hoạt động doanh nghiệp và 100% cán bộ, công chức, viên chức được trang bị kiến thức pháp luật thuộc lĩnh vực công tác chuyên môn, nghiệp vụ mà mình đang làm.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Chính quyền phải cung cấp thông tin cho dân". Bài báo phản ánh: Hôm qua (18-2), Ban soạn thảo Luật Tiếp cận thông tin đã họp phiên thứ hai cho ý kiến về đề cương chi tiết dự luật này. Theo thống kê, hiện nay đã có gần 90 nước trên thế giới ban hành luật liên quan đến quyền tự do thông tin của người dân và hơn 50 nước khác đang xúc tiến soạn thảo. Luật này dự kiến được Quốc hội xem xét thông qua vào tháng 5-2010. Theo bà Nguyễn Thị Kim Thoa, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật hình sự-hành chính (Bộ Tư pháp), một trong những vấn đề gây nhiều tranh luận khi xây dựng dự án luật này chính là phạm vi áp dụng. Do vậy, tổ biên tập đã trình hai phương án. Thứ nhất, luật này áp dụng đối với các cơ quan hành chính nhà nước. Phương án còn lại bổ sung thêm phạm vi áp dụng đối với Quốc hội, HĐND các cấp, TAND các cấp. Tuy nhiên, ý kiến các thành viên tổ biên tập chủ yếu nghiêng về phương án đầu tiên.
Đa số ý kiến đều nhất trí với đề xuất của tổ biên tập. Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự-kinh tế Dương Đăng Huệ cho rằng luật nên giới hạn phạm vi điều chỉnh ở các cơ quan hành chính nhà nước để bảo đảm tính thực thi. “Hành chính nắm nhiều thông tin nhất, liên quan trực tiếp đến người dân và cũng là nơi đang bị đánh giá là quan liêu nhất...” - ông Huệ nhận xét.
Một vấn đề khác cũng chưa thống nhất được ý kiến, theo bà Thoa, là xác định ai có quyền được yêu cầu cung cấp thông tin. Quan điểm thứ nhất cho rằng mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều có quyền được thông tin và yêu cầu được cung cấp thông tin (bao gồm cả người nước ngoài). Quan điểm thứ hai, thể hiện trong dự thảo, là người nước ngoài sinh sống ở Việt Nam, các tổ chức, pháp nhân nước ngoài hoạt động ở Việt Nam có quyền được thông tin với điều kiện thông tin họ yêu cầu phải liên quan đến họ hoặc lĩnh vực hoạt động của họ.
Theo đề cương chi tiết, dự luật này sẽ quy định các loại thông tin bắt buộc phải công khai, thông tin có thể được tiếp cận, thông tin không được tiếp cận và thông tin hạn chế tiếp cận. Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000 quy định: “Căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của nội dung tin, mức độ nguy hại nếu bị tiết lộ, các tin thuộc phạm vi bí mật nhà nước được chia làm ba mức độ: tuyệt mật, tối mật và mật”. Tuy nhiên, những thông tin nào được coi là tuyệt mật, tối mật và mật thì pháp lệnh không quy định cụ thể. Bà Thoa dẫn chứng, khoản 2 Điều 5 Pháp lệnh quy định: “Các chủ trương, chính sách về đối nội, đối ngoại của ĐCS Việt Nam và nhà nước CHXHCN Việt Nam không công bố hoặc chưa công bố” được xếp vào dạng “tuyệt mật”... “Nếu Luật Tiếp cận thông tin không “giải mã” được vấn đề này thì ngay cả khi được thông qua, luật cũng sẽ không đạt nhiều hiệu quả như mong muốn” - bà Thoa nhấn mạnh.
Đề cương quy định các thông tin bắt buộc phải công khai bao gồm: văn bản QPPL, kể cả quá trình xây dựng soạn thảo, hồ sơ; chính sách, số liệu thống kê theo quy định của pháp luật về thống kê và những thông tin, tài liệu liên quan đến quyền, lợi ích, nghĩa vụ của người dân... Thông tin có thể được tiếp cận là những thông tin do các cơ quan nhà nước nắm giữ trong trường hợp thông tin đó là cần thiết cho việc thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích của người dân.
“Cơ quan hành chính trước khi quyết định một vấn đề gì liên quan đến quyền của người dân thì phải cung cấp cho họ biết để họ tự bảo vệ mình. Nếu đặt mục đích như thế thì dự thảo này chưa đáp ứng được” - PGS-TS Nguyễn Đăng Dung, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu nhân quyền (Đại học Quốc gia Hà Nội), thẳng thắn nhận xét.
Ông Nguyễn Trí Dũng, đại diện của Văn phòng Quốc hội, đề xuất luật này chỉ nên đề cập đến thông tin công. Những thông tin thương mại, dân sự không thuộc luật này điều chỉnh. Tuy nhiên, với những thông tin mà ranh giới phân định mập mờ thì phải được cung cấp khi có yêu cầu. “Những thông tin cá nhân chỉ được cung cấp cho cá nhân đó. Thông tin cá nhân khi bị tiếp cận phải thông báo cho cá nhân đó biết” - ông Dũng nói thêm. Cũng theo ông Dũng, những thông tin buộc phải công bố thì nên đưa tới một địa chỉ, như trang web, để người dân có thể dễ dàng tiếp cận được theo nguyên tắc: chi phí rẻ, nhanh, không cần danh tính; tiếp cận thông tin ở bất cứ chỗ nào và không ràng buộc trách nhiệm.
Theo ông Dương Đăng Huệ, Luật Tiếp cận thông tin không nên liệt kê những thông tin bị cấm công khai hoặc cấm tiếp cận mà chỉ cần nêu các nguyên tắc (tiêu chí) xác định tính chất thông tin. Trên cơ sở đó, các luật chuyên ngành quy định cụ thể, tránh sự tùy tiện. “Luật này chỉ nên tập trung vào các vấn đề cơ bản như thủ tục cung cấp thông tin, phí cung cấp thông tin và trách nhiệm pháp lý khi cơ quan, tổ chức không cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin sai một cách cố ý” - ông Huệ nói.
3. Báo Đầu tư có bài "Mắc lỗi do văn bản rối". Bài báo phản ánh: Không chỉ Cục Hải quan TP. Hải Phòng, mà nhiều đơn vị khác trong ngành hải quan cũng "mắc lỗi" do văn bản quy phạm pháp luật thiếu rõ ràng.
Bốn ngày sau khi Báo Đầu tư số ra ngày 6/2/2009 đăng bài "Chưa thống nhất trong cách hiểu" phản ánh những khác biệt trong cách hiểu và áp dụng Thông tư 13/2009/TT-BTC ngày 22/1/2009 hướng dẫn thực hiện giảm thuế giá trị gia tăng đối với 19 nhóm hàng hóa, dịch vụ đối với doanh nghiệp kinh doanh gặp khó khăn (Thông tư 13), Tổng cục Hải quan đã có Công văn số 667/TCHQ-VP gửi Cục trưởng Cục Hải quan TP. Hải Phòng đề nghị kiểm tra việc Báo Đầu tư nêu, báo cáo Tổng cục bằng văn bản trước ngày 11/2/2009.
Tổng cục Hải quan đồng thời yêu cầu Cục Hải quan TP. Hải Phòng có công văn gửi Báo Đầu tư nêu rõ vấn đề để thông tin cho bạn đọc biết. Ngay sau đó, vào ngày 12/2/2009, Tổng cục Hải quan gửi Công văn 714/TCHQ-KTTT tới Báo Đầu tư giải thích rõ thời điểm áp dụng của Thông tư 13 là đối với các tờ khai hải quan đăng ký từ ngày 1/2/2009. Ngày 16/2/2009, Cục Hải quan TP. Hải Phòng cũng đã có Công văn 731/HQHP-PNV gửi Báo Đầu tư giải trình rõ "hành trình" để xác định được thời điểm thống nhất áp dụng văn bản pháp luật, ở đây là Thông tư 13, với cách hướng dẫn của Tổng cục Hải quan.
Như vậy, những băn khoăn về thời điểm hiệu lực của một văn bản pháp luật đã được giải toả một cách nhanh chóng ngay sau khi Báo Đầu tư phát hiện và phản ánh sự bất nhất trong cách hiểu và thực thi ở các cấp. Tuy nhiên, mọi việc khó có thể được coi là kết thúc suôn sẻ nếu như câu hỏi trách nhiệm chưa được chính những người trong cuộc làm rõ. Cần phải nói thêm rằng, cũng vào ngày 6/2/2009, Tổng cục Hải quan đã có Công văn số 597/TCHQ-KTTT gửi Cục hải quan các tỉnh, thành phố nhằm thống nhất thực hiện hiệu lực áp dụng một số văn bản quy phạm pháp luật. Công văn 597 đã nhắc tới tình trạng một số đơn vị có văn bản hỏi về hiệu lực áp dụng của một số thông tư, trong đó có Thông tư 13/2009/TT-BTC ngày 22/1/2009, Thông tư 15/2009/TT-BTC ngày 22/1/2009 về hướng dẫn thực hiện mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi nhóm 2710, Thông tư 05/2009/TT-BTC ngày 13/1/2009 hướng dẫn một số nội dung về thủ tục hải quan, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ.
Điểm chung của các thông tư được nhắc tên là đều vừa được ban hành tháng 1/2009 và đều thuộc nhóm "khó xác định hiệu lực thi hành". Có nghĩa là trong phần quy định tổ chức thực hiện của các thông tư này vừa ghi "Thông tư có hiệu lực sau 45 ngày kể từ ngày ký", vừa ấn định ngày cụ thể áp dụng đối với các tờ khai hải quan cụ thể. Việc Tổng cục Hải quan buộc phải có văn bản để đảm bảo các cục hải quan đều có được cách hiểu và áp dụng giống như cách hiểu và áp dụng của Tổng cục Hải quan có lẽ cũng xuất phát từ quy định không dễ lý giải một cách cụ thể này.
Rõ ràng, sự "lấn cấn" của Cục Hải quan Hải Phòng trong hướng dẫn thực hiện Thông tư 13/2009/TT-BTC không phải là cá biệt. Trong Công văn gửi Báo Đầu tư, Cục Hải quan TP. Hải Phòng cho biết, vào thời điểm ngày 2/2/2009, có nghĩa là sau 1 ngày Thông tư 13 có hiệu lực áp dụng đối với một số trường hợp, Cục Hải quan Hải Phòng khi đó chưa nhận được Thông tư 13 và đã phải tìm kiếm thông tin trên trang web.thuvienphapluat.com.vn để làm cơ sở ra văn bản hướng dẫn các chi cục của Cục Hải quan Hải Phòng.
Công văn số 518/HQHP-PNV ngày 4/2/2009 của Cục Hải quan Hải Phòng hướng dẫn các chi cục thực hiện việc tính thuế giá trị gia tăng theo hướng "Thông tư có hiệu lực sau 45 ngày kể từ ngày ký và áp dụng đối với hàng hoá dịch vụ nêu tại Điều 1, Thông tư này từ ngày 1/2/2009 đến hết ngày 31/12/2009". Tuy nhiên, cũng tại Công văn gửi Báo Đầu tư, Cục Hải quan TP.Hải Phòng cũng đã trích nguồn Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về hướng dẫn thời điểm hiệu lực và việc áp dụng văn bản quy pháp pháp luật để lý giải cho nguyên nhân dẫn tới cách hiểu khác nhau giữa thời điểm hiệu lực và áp dụng. Vì theo Điều 78, 83 của Luật này, Thông tư có hiệu lực thì mới áp dụng. Như vậy, chiếu vào quy định này, nội dung của các thông tư trên rõ ràng là rất khó hiểu.
Mấu chốt vấn đề có lẽ nằm ở cách thức thể hiện văn bản pháp quy của các cơ quan có trách nhiệm ra văn bản. Đúng như lời trần tình của ông Trần Văn Hội, Phó cục trưởng Cục Hải quan Hải Phòng với Báo Đầu tư về áp lực lớn của cấp thực thi, nếu văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, không thống nhất, khó hiểu thì không chỉ doanh nghiệp, mà là các cấp hành chính thực thi cũng có thể phải gánh chịu hậu quả.
4. Báo Tuổi trẻ có bài "Quyền tiếp cận thông tin: để luật không chỉ có trên...giấy". Bài báo phản ánh: Khoảng 15 năm gần đây, thế giới chứng kiến xu hướng rộng rãi thừa nhận quyền tiếp cận thông tin do các cơ quan công quyền quản lý. Cùng chung xu hướng đó, ở VN đã khởi động và theo dự kiến, Luật tiếp cận thông tin sẽ được trình Quốc hội vào cuối năm 2009.
Đây là quyền con người cơ bản của cá nhân được cung cấp thông tin do các cơ quan công quyền nắm giữ. Ngoài các vấn đề then chốt như đại diện của ban soạn thảo luật này đã đề cập, một trong những nguyên tắc chính của quyền này là phải có cơ chế độc lập để kiểm tra lại quyết định từ chối cung cấp thông tin công. Có nghĩa là khi công dân yêu cầu được tiếp cận thông tin nhưng cơ quan công quyền từ chối, và công dân thấy không thỏa mãn với lập luận của cơ quan công quyền thì có nơi mà kêu. Nơi đó có thể là một cơ quan độc lập giải quyết khiếu nại, có thể là tòa án hoặc cả hai.
Luật của đại đa số các nước đều có quy định riêng về cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện của công dân liên quan đến quyền tiếp cận thông tin. Theo đó, thông thường có ba cơ chế: cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính; trao cho cơ quan độc lập giải quyết khiếu nại về quyền tiếp cận thông tin; và giải quyết khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin ở tòa án, kể cả tòa án hiến pháp.
Chẳng hạn ở Canada, cao ủy viên về thông tin có thẩm quyền tiếp nhận và điều tra khiếu nại về quyền tiếp cận thông tin trước khi khiếu kiện ra tòa án. Nhân vật này do toàn quyền Canada bổ nhiệm, nhưng phải tham vấn lãnh đạo các đảng trong quốc hội liên bang và phải được quốc hội liên bang chấp thuận; có nhiệm kỳ bảy năm; quyền lực ngang thứ trưởng, lương ngang thẩm phán tòa án liên bang. Hoặc ở Nhật Bản, ủy ban thẩm tra về việc cung cấp thông tin thuộc văn phòng chính phủ có 12 thành viên, trong đó không quá bốn người làm toàn thời gian; thủ tướng chỉ định các thành viên này từ các thẩm phán cấp cao và phải được Quốc hội Nhật Bản chấp thuận; nhiệm kỳ ba năm có thể tái bổ nhiệm; thủ tướng có thể bãi nhiệm với sự chấp thuận của quốc hội.
Ở các nước theo mô hình Bắc Âu có một cơ quan chuyên môn của quốc hội trực tiếp tiếp nhận, giải quyết khiếu nại về quyền tiếp cận thông tin là thanh tra quốc hội (ombudsman). Chẳng hạn ở Na Uy, trên thực tế rất ít trường hợp khiếu kiện liên quan đến tiếp cận thông tin được đưa ra tòa án xét xử, mà các đơn khiếu nại thường được gửi tới ombudsman nhiều hơn. Nguyên nhân do thủ tục nhanh gọn, đơn giản và quyết định của ombudsman tuy không có hiệu lực pháp lý song các bên vi phạm luôn tuân thủ.
Một xu hướng lớn trên thế giới về tiếp cận thông tin là phải có hệ thống tòa án có thẩm quyền và khả năng giải thích luật, áp dụng luật vừa chặt chẽ vừa linh hoạt. Đặc biệt quan trọng, tòa án thường giải thích quyền này gắn với quyền hiến định cơ bản về tự do bày tỏ chính kiến. Ví dụ, năm 1982 Tòa án tối cao Ấn Độ tuyên rằng: “Khái niệm về một chính phủ mở xuất phát trực tiếp từ quyền được biết của công dân gián tiếp thể hiện trong quyền bày tỏ chính kiến do điều 19 của hiến pháp quy định.
Bởi vậy, việc công bố thông tin liên quan đến hoạt động của chính phủ phải trở thành thông lệ, việc giữ bí mật chỉ là ngoại lệ và chỉ được biện luận khi có yêu cầu khắt khe nhất về lợi ích công cộng. Cách tiếp cận của tòa án tối cao là phải thu hẹp phạm vi mật càng hẹp càng tốt theo yêu cầu của lợi ích công cộng, trong khi luôn phải nhớ rằng việc công bố thông tin cũng là một khía cạnh quan trọng của lợi ích công cộng”.
Quyền tiếp cận thông tin, cũng như những quyền khác, nếu chỉ nằm trên giấy thì mất tác dụng. Chỉ khi có những cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện hiệu quả, quyền tiếp cận thông tin mới được bảo đảm trên thực tế. Mà như thế nhìn vào tình hình giải quyết khiếu nại, khiếu kiện nói chung ở nước ta hiện nay, thấy ngổn ngang “trăm mối tơ vò”, còn quá nhiều việc phải làm phía trước cùng với việc ban hành luật trên giấy.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 19/02/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.