Điểm tin báo chí sáng ngày 09 tháng 01 năm 2009

09/01/2009
Trong buổi sáng ngày 09/01/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Kinh tế & Đô thị có bài: “Hà Nội hoàn tất nhân sự cho UBND cấp huyện vào quý I/2009”. Theo báo, hiện số lượng thành viên UBND cấp huyện của 29 quận, huyện, thành phố thuộc Hà Nội có 252 người, gồm 28 Chủ tịch, 85 Phó Chủ tịch, 139 Ủy viên UBND.
Tại cuộc họp với lãnh đạo các quận, huyện, thành phố của Hà Nội sáng nay, 8/1, Sở Nội vụ Thành phố cho biết, so với định biên, số lượng thành viên UBND cấp quận, huyện, thành phố của Hà Nội hiện thiếu 1 chủ tịch, 1 phó chủ tịch và 7 ủy viên.
Cuộp họp sáng nay xoay quanh việc thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ của Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội. Để bảo đảm khi tăng thêm một phó chủ tịch cho các quận, huyện, thành phố trực thuộc sau khi Hà Nội mở rộng, số lượng thành viên UBND sẽ bằng số lượng theo quy định tại Nghị định 107/2004/NĐ-CP của Chính phủ thì 22 quận, huyện, thành phố của Hà Nội đủ số lượng thành viên sẽ phải giảm bớt 1 ủy viên UBND; 7 quận, huyện còn lại sẽ phải xem xét cân đối, điều chỉnh số lượng thành viên UBND.
Hội nghị đã thống nhất mỗi quận, huyện, thành phố trực thuộc sẽ có 9 ủy viên ủy ban theo luật định, bao gồm: 1 chủ tịch, 4 phó chủ tịch; 1 ủy viên phụ trách Văn phòng; 1 ủy viên phụ trách Công an; 1 ủy viên phụ trách Quân sự; 1 ủy viên phụ trách Thanh tra.
Hiện số lượng thành viên UBND cấp huyện của 29 quận, huyện, thành phố thuộc Hà Nội có 252 người, gồm 28 Chủ tịch, 85 Phó Chủ tịch, 139 Ủy viên UBND. Trong số này, có 22 quận, huyện, TP có đủ số lượng thành viên UBND cấp huyện. 7 UBND quận, huyện còn lại thiếu cả về số lượng và cơ cấu thành viên UBND. Cụ thể: UBND huyện Đông Anh thiếu 1 Chủ tịch; UBND quận Hai Bà Trưng thiếu 1 Phó Chủ tịch; các quận, huyện Thạch Thất, Hoài Đức, Long Biên, Tây Hồ, Thanh Xuân thiếu ủy viên.
Để phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương, UBND các quận, huyện, thành phố được đề xuất tiếp nhận 1 phó chủ tịch phụ trách lĩnh vực mà quận, huyện, thành phố đang cần để nâng cao năng lực quản lý địa phương. Trong quý I/2009, Thành ủy Hà Nội sẽ tổ chức điều động, luân chuyển cán bộ về giữ các cương vị mà UBND cấp quận, huyện, thành phố trực thuộc còn thiếu.
2. Báo Hà Nội mới có bài: “Tham dự Hội nghị 17 Diễn đàn Nghị viện châu Á-Thái Bình Dương”. Theo báo, ngày 8-1, Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội ra thông cáo cho biết: Nhận lời mời của ông Thongsing Thammavong, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Chủ tịch Hội nghị thường niên lần thứ 17 Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương, Đoàn đại biểu Quốc hội nước ta do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng dẫn đầu sẽ tham dự hội nghị nói trên từ ngày 11 đến 12-1-2009.
Báo cũng đưa tin: Đẩy mạnh công tác luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ. Theo báo, ngày 7-1, Ban Chấp hành Đảng bộ TP Hà Nội (khóa XIV) đã tiến hành Hội nghị lần thứ 14 nhằm đánh giá công tác xây dựng Đảng, công tác kiểm tra, giám sát năm 2008; triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2009. Kết luận Hội nghị, đồng chí Phạm Quang Nghị, Ủy viên BCT, Bí thư Thành ủy đã có bài phát biểu quan trọng. Báo Hànộimới xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XIV diễn ra vào thời điểm Đảng bộ và nhân dân Thủ đô vừa kết thúc thắng lợi một năm phấn đấu vượt qua biết bao khó khăn, thử thách và phấn khởi, tin tưởng bước vào năm mới 2009 với một khối lượng công việc hết sức nặng nề đang đợi phía trước.
Hội nghị đã hoàn thành nội dung chương trình đề ra: thảo luận, góp ý kiến vào các dự thảo báo cáo công tác xây dựng Đảng của Thành ủy năm 2008, định hướng nhiệm vụ năm 2009; báo cáo tổng kết công tác kiểm tra, giám sát năm 2008, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2009 và kế hoạch kiểm tra, giám sát của Đảng bộ thành phố năm 2009. Hội nghị đã thảo luận sôi nổi, đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc, bổ sung nhiều nội dung, giải pháp cụ thể, thiết thực. Các ý kiến bày tỏ sự nhất trí cao với nội dung báo cáo, đồng thời cũng nêu lên yêu cầu báo cáo cần phản ánh các vụ việc có địa chỉ cụ thể, sâu sát hơn. Ban Thường vụ Thành ủy sẽ tiếp thu để hoàn thiện các văn bản.
3. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài: “Báo chí thế giới nói về triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2009”. Theo báo, “vào giữa năm 2008, một số nhà quan sát kinh tế dự báo Việt Nam sẽ gặp thảm hoạ tài chính, nhưng thực tế cho thấy họ đã sai. Dù bị tổn thương ít nhiều nhưng Việt Nam đã tránh được cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Việt Nam đã hoá giải nguy cơ khủng hoảng tài chánh đến từ nạn lạm phát phi mã” - hãng tin Đức DPA viết và xem đây là một thành công lớn gây bất ngờ của Việt Nam trong năm 2008. DPA viết tiếp: “Ngày 28 tháng 5, một chuyên gia phân tích ngoại hối của Ngân hàng Mỹ Morgan Stanley tung ra báo cáo với nội dung: trong tình hình lạm phát và thâm hụt mậu dịch tăng vọt, đồng tiền Việt Nam bị đe dọa nghiêm trọng, tỉ giá đồng Việt Nam so với USD sẽ giảm mạnh trong vòng 12 tháng. Nếu Việt Nam không nhanh chóng phá giá đồng nội tệ thì đồng Việt Nam sẽ có nguy cơ sụp đổ vào cuối năm 2008. Ngân hàng Đức Deutsche Bank cũng tiên đoán là đồng Việt Nam sẽ mất giá đến 30%, Ngân hàng Mỹ Merrill Lynch thì nói đến “cú sốc lạm phát” sẽ dẫn đến hiện tượng rút vốn ồ ạt làm tan rã một số ngân hàng. Nhưng kết quả ra sao? 6 tháng sau, Merril Lynch đã phải bán cho Bank of America để tránh phá sản, còn Morgan Stanley và Deutsche thì thua lỗ nặng, phải cắt xén tiền lương ban giám đốc trong khi Việt Nam vừa giảm được lạm phát vừa duy trì được tỉ giá đồng nội tệ ở mức giống tháng 5. Điều này cho thấy chính phủ Việt Nam đã can thiệp vào thị trường tài chính một cách hiệu quả”. Tuy nhiên, DPA cảnh báo: “Năm 2009, Việt Nam sẽ gặp khó khăn khi tìm nguồn đầu tư nước ngoài để bù đắp thiếu hụt cán cân thương mại trong tình hình nhiều công ty nước ngoài không còn tiền đầu tư sang nước khác”.
Trong một bài viết trên tờ AsiaTimes, tác giả nhận xét: Đối phó với suy giảm kinh tế toàn cầu, Việt Nam cùng một lúc thực hiện 2 biện pháp kích thích nền kinh tế: nới lỏng chính sách tiền tệ (cụ thể là giảm lãi suất cơ bản từ 10% xuống còn 8,5% và giảm mức dự trữ bắt buộc của các ngân hàng chỉ còn 5% tại Ngân hàng Nhà nước) đồng thời tung tiền vào các chương trình phục hồi sản xuất. Các qui định mới sẽ giúp các ngân hàng dễ cho vay hơn và người có nhu cầu về vốn dễ vay hơn. Nới lỏng chính sách tiền tệ dẫn đến giảm lãi suất cho vay, có nơi chỉ còn dưới 11%. Trong bối cảnh lạm phát tại Việt Nam đang giảm dần, mặc dầu vẫn ở mức cao, hơn 20% so với 8,3% của năm 2007, Chính phủ Việt Nam sẽ trích khoản tiền 6 tỉ USD của nền kinh tế trị giá 80 tỉ USD để kích cầu. Trong tình hình hiện nay, nhiều chuyên gia tin rằng Việt Nam cần tiếp tục công cuộc cải tổ, đồng thời tăng cường giám sát hệ thống ngân hàng. Báo cáo do Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) thực hiện cho thấy những khiếm khuyết trong hệ thống ngân hàng là một trong các yếu tố nội tại làm cho tình hình kinh tế khó khăn hơn. Việc hệ thống ngân hàng cho vay nhiều vào khu vực bất động sản đã tác động xấu khi giá bất động sản bị giảm từ 40 đến 50% trong năm qua. Tuy chưa đến mức khủng hoảng tín dụng như Mỹ nhưng cũng có nhiều chủ đầu tư bất động sản không thể trả lại nợ cho ngân hàng khiến ngân hàng bị khủng hoảng thanh khoản. Dù trong năm 2008 không có ngân hàng nào bị thua lỗ, nhưng IMF cảnh báo là những căng thẳng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể tăng thêm trong năm 2009 và vị thế tài chính của các ngân hàng cũng sẽ yếu đi. Hệ thống ngân hàng Việt Nam dù tăng nhanh về số lượng nhưng tỉ lệ quốc doanh lại rất cao nếu xét về tổng vốn tích lũy. Chỉ có 6 ngân hàng quốc doanh nhưng lại chiếm đến hơn 67% tổng vốn. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay khoảng 45 ngàn tỉ đồng, chiếm 3,5% tổng dư nợ tín dụng (số liệu công bố tại hội nghị toàn ngành ngân hàng tổ chức tại Hà Nội).
Vốn đã bị khó khăn do lạm phát, kinh tế Việt Nam lại chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong khu vực xuất khẩu (một trong những động lực phát triển của Việt Nam) khiến mức tăng trưởng kinh tế trong năm 2008 chỉ đạt 6,2%, so với 8,5% của năm 2007, thấp nhất trong 10 năm qua, do giá cả một số mặt hàng xuất khẩu giảm và nhu cầu nhập khẩu của các thị trường chính như Mỹ, EU cũng giảm. Xuất khẩu năm 2008 chỉ tăng 6,5% so với 8,5% của năm 2007. Theo một số chuyên gia thì mức tăng trưởng 6,5% không thấp nhưng chất lượng giảm, để lại gánh nặng cho những năm sau, nhất là vấn đề ô nhiễm môi trường. Những tháng đầu năm 2008, nền kinh tế Việt Nam phát triển quá nóng, giá tiêu dùng tăng nhanh. Đến những tháng cuối năm, tỷ lệ lạm phát đã bị kéo chậm lại bằng một số biện pháp đồng bộ. Tuy nhiên, để cải thiện tình hình kinh tế chung trong năm 2009, Việt Nam cần đẩy mạnh cải tổ hơn nữa. Thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2008 giảm đến 66%. Chỉ số VN Index trong phiên giao dịch cuối năm ở mức 315,62 điểm, bằng một phần ba so với năm ngoái và được xem là thấp nhất trong lịch sử chứng khoán Việt Nam. Mức tăng của chứng khoán Việt Nam trong hai năm 2006 - 2007 là cao nhất thế giới nhưng mức giảm trong năm 2008 cũng nhiều nhất thế giới. Năm 2008 có thêm 87 loại cổ phiếu mới trên hai sàn chứng khoán TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội, trong đó có các đại gia PetroVietnam, Finance, Vinaconex, Hoàng Anh Gia Lai.
Báo cáo mới nhất của IMF đã dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ chỉ còn 5% vào năm 2009 và lạm phát sẽ tiếp tục giảm xuống dưới hai con số dù lạm phát cơ bản (không gồm thực phẩm thô và năng lượng) giảm chậm hơn. Thâm hụt cán cân thương mại cũng giảm, nhưng vẫn ở mức cao. Tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới kéo dài sẽ tác động đến lượng kiều hối của cộng đồng người Việt hải ngoại gởi về nước.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh về việc 5 năm thực hiện Nghị quyết 388: Bồi thường hơn 16 tỷ đồng cho 210 người bị oan. Theo báo, VKSND tối cao vừa chủ trì tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 388 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự. Theo đó, tính đến tháng 6-2008, cơ quan tư pháp các cấp đã tiếp nhận đơn yêu cầu bồi thường của 311 người và đã thương lượng, bồi thường cho 210 người với tổng số tiền hơn 16 tỷ đồng. Hầu hết trường hợp oan này đều xảy ra trước khi có Nghị quyết 388.
Theo VKSND tối cao, các cơ quan tư pháp thụ lý đơn đều thực hiện khôi phục danh dự cho người bị oan trước khi thương lượng bồi thường thiệt hại vật chất, hình thức gồm cải chính công khai trên báo, tổ chức xin lỗi công khai tại nơi cư trú, nơi làm việc theo yêu cầu của người bị oan. Tất cả được tiến hành với nghi thức trang trọng, cầu thị, giúp minh oan, giải tỏa tâm lý mặc cảm nặng nề, góp phần củng cố lòng tin của người dân với hoạt động tư pháp. Có trường hợp sau khi được xin lỗi công khai, người bị oan không đòi bồi thường vật chất nữa.
Cùng với việc khôi phục danh dự, cơ quan tố tụng cũng xử lý cán bộ làm oan: Ba điều tra viên bị kỷ luật, bốn trường hợp phải rút kinh nghiệm, tám thẩm phán không được tái bổ nhiệm, 53 kiểm sát viên bị xử lý trách nhiệm, trong đó 21 cán bộ là viện trưởng, viện phó VKS cấp huyện, một viện phó VKS tỉnh. Nguyên nhân chủ yếu là cán bộ tố tụng thiếu ý thức trách nhiệm, hạn chế năng lực áp dụng luật. Đến nay chưa phát hiện trường hợp cán bộ tố tụng vì động cơ cá nhân mà cố ý làm oan cho người vô tội.
Tuy nhiên, năm năm thực hiện Nghị quyết 388 đã bộc lộ một số hạn chế. Một số vụ việc cơ quan tư pháp không nhận thấy hết trách nhiệm, hậu quả của việc gây oan, dẫn tới né tránh, đùn đẩy trách nhiệm. Có nơi cơ quan tư pháp còn đưa ra lý do thiếu chính đáng để từ chối xin lỗi, bồi thường hoặc có thụ lý giải quyết thì thiếu cầu thị, gây căng thẳng hoặc tính không đầy đủ, toàn diện thiệt hại thực tế cho người bị oan...
Từ kết quả tổng kết, VKSND tối cao đề nghị sớm luật hóa những quy định của Nghị quyết 388 vào Luật Bồi thường nhà nước; nghiên cứu mở rộng đối tượng được bồi thường, chẳng hạn như trường hợp hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can thực hiện tội phạm. VKSND tối cao cũng kiến nghị quy định cơ quan tố tụng mà làm oan thì phải chủ động xin lỗi, cải chính công khai ngay sau khi bản án, quyết định xác định một người bị oan có hiệu lực pháp luật thay vì buộc người đó có đơn yêu cầu như hiện nay.
2. Báo An ninh thủ đô có bài: “Giải quyết cơ bản các vụ việc về tư pháp còn tồn đọng”. Theo báo, trong năm 2008, Thanh tra Bộ Tư pháp đã thanh tra 20 cuộc, tiếp 1.119 lượt công dân, giải quyết 2.037 đơn thư khiếu nại, tố cáo. Số vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp ngày càng gia tăng và hầu hết thuộc lĩnh vực thi hành án dân sự (chiếm 90% lượng đơn thư).
Do đó, Thanh tra Bộ đã phối hợp với Cục THADS rà soát, lập danh sách các vụ việc phức tạp, bức xúc, tồn đọng kéo dài và đã giải quyết cơ bản các vụ việc tồn đọng.
Thanh tra 63 Sở Tư pháp trong cả nước đã tập trung thanh tra các hoạt động hộ tịch, thi hành án, trợ giúp pháp lý, chứng thực, luật sư, đánh giá tài sản, kết hôn có yếu tố nước ngoài. Qua đó, các địa phương kịp thời phát hiện và xử lý nhiều sai phạm...
3. Báo Lao động phản ánh: ngày 02/01/2009, Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, bộ này đã ban hành danh mục trên và bắt buộc các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số, tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng... phải áp dụng.
Danh mục có 6 tiêu chuẩn gồm: Chuẩn bảo mật HSM; chuẩn mã hóa; chuẩn tạo yêu cầu và trao đổi chứng thư số; chuẩn về chính sách và quy chế chứng thực chữ ký số; chuẩn về lưu trữ và truy xuất chứng thư số; chuẩn về kiểm tra trạng thái chứng thư số.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 09/01/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng Bộ./.


File đính kèm