Trong buổi sáng ngày 16/9/2008, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo VnExpress có bài: “Công chức lương dưới 1,6 triệu đồng sẽ được trợ cấp”. Bài báo phản ánh: Mức trợ cấp dự kiến là 270.000 đồng một quý cho những cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương thuộc lực lượng vũ trang có lương thấp (hệ số từ 3 trở xuống). Dự kiến, chính sách mới này sẽ được áp dụng từ 1/10, cùng thời điểm điều chỉnh lương hưu và trợ cấp ưu đãi cho người có công.
Tại phiên họp thường kỳ Chính phủ vào cuối tháng 8, Bộ Nội vụ đã trình dự thảo quyết định trợ cấp khó khăn đối với công chức, viên chức và người hưởng lương thuộc lực lượng vũ trang. Hiện, mức lương tối thiểu chung của lao động là 540.000 đồng. Nếu tính từ hệ số 3 trở xuống sẽ tương ứng với mức lương dưới 1.620.000 đồng.
Hiện số người cũng như thời gian được hưởng trợ cấp khó khăn của công chức chưa được tiết lộ. Tuy nhiên, theo hệ thống thang bảng lương do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội ban hành, lương hệ số 3 trở xuống sẽ bao gồm những người mới tốt nghiệp đại học, người có trình độ trung cấp đi làm được khoảng 5-7 năm trở lại.
Trước đó, ngày 12/9, Thủ tướng đã ban hành nghị định tăng 15% lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng. Việc điều chỉnh này đã đi trước lộ trình cải cách tiền lương 3 tháng, tuy nhiên mức tăng vẫn thấp hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng. Theo Tổng cục Thống kê, 8 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 22,15%.
Trao đổi về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Huỳnh Thị Nhân thừa nhận mức tăng 15% cho người về hưu, người hưởng trợ cấp chỉ bù đắp một phần trượt giá. "Đây là bước điều chỉnh trước mắt, Chính phủ sẽ nghiên cứu và điều chỉnh tiếp. Thời điểm cụ thể còn phải nghiên cứu", bà Ngân nói.
Bộ Lao động cũng đã trình Chính phủ dự thảo nghị định điều chỉnh trợ cấp, phụ cấp ưu đãi cho người có công với cách mạng (mức tăng thêm 15%). Dự kiến chính sách mới này sẽ được áp dụng từ ngày 1/10.
Như vậy, trước những biến động về giá cả, kế hoạch cải cách tiền lương năm 2008 đã có một chút thay đổi.3 nhóm gồm người hưởng lương hưu, trợ cấp; người có công với cách mạng và công chức lương thấp đã được điều chỉnh lương, trợ cấp từ 1/10, sớm hơn 3 tháng so với lộ trình.
Thứ trưởng Nhân cho biết thêm, Bộ Lao động đang phối hợp với các bộ, ngành xây dựng dự thảo nghị định điều chỉnh lương tối thiểu vùng đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, để áp dụng từ 1/1/2009. Ngoài ra, Bộ tiếp tục nghiên cứu trình Chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu chung trong năm 2009.
Báo cáo trước Quốc hội tại kỳ họp thứ ba, Bộ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho biết, tính đến cuối năm 2007, số cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, đảng, đoàn thể và cấp xã khoảng 2 triệu người. Người làm công ăn lương trong các doanh nghiệp khoảng 6 triệu. Người hưởng chế độ hưu trí và trợ cấp bảo hiểm xã hội khoảng 2 triệu và người hưởng trợ cấp ưu đãi người có công hằng tháng khoảng 1,6 triệu.
2. Báo Sài gòn giải phóng có bài: “Những điểm cần làm rõ để tránh ngộ nhận trong dư luận về vụ Giáo xứ Thái Hà”. Bài báo phản ánh: Sau hơn 8 tháng kích động giáo dân Thái Hà làm bung xung đòi đất, vi phạm pháp luật để bị truy cứu trách nhiệm hình sự, các linh mục Dòng Chúa Cứu thế ở Thái Hà đã tập hợp tại 38 Kỳ Đồng quận 3 TPHCM, chiều 28-8-2008, tổ chức một buổi cầu nguyện tại nhà thờ Đức Mẹ hằng Cứu Giúp nhằm lôi cuốn giáo dân ở đây cùng “tranh đấu” với họ.
Mở đầu buổi cầu nguyện “thay mặt nhà dòng và thay mặt anh em ngoài Bắc”, linh mục dẫn chương trình tuyên bố:
“Chúng ta không tranh đấu cho một mảnh đất. Đương nhiên mảnh đất của chúng ta thì chúng ta muốn trả về cho đúng nghĩa. Nhưng chúng ta không dừng lại ở chỗ đòi một mảnh đất, một ngôi nhà, một sở hữu chủ nào đó. Nhưng trong tinh thần của hội thánh hôm nay đã mở ra chiều hướng hòa bình và công lý để đấu tranh cho quyền lợi của con người trên toàn thế giới. Chúng ta đấu tranh là đấu tranh như thế. Vì thế ý nghĩa của buổi cầu nguyện hôm nay là chúng ta cầu nguyện không phải để đòi một mảnh đất. Nhưng chúng ta đấu tranh trong ôn hòa để hòa bình và công lý sớm được thực thi trên quê hương của chúng ta” (trích website của Dòng Chúa Cứu thế về buổi cầu nguyện tại 38 Kỳ Đồng ngày 28-8-2008).
Như thế có nghĩa là: nếu đòi lại được mảnh đất ở 178 phố Nguyễn Lương Bằng rồi, vẫn tiếp tục tranh đấu cho tới khi “công lý được thực thi trên quê hương của chúng ta”. Công lý nào? Phải chăng cho tới lúc chế độ hiện tại sụp đổ và các chế độ bù nhìn Sài Gòn cũ được lập lại?
Bài báo tiếp tục đưa ra các nhận định như: Kích động bà con giáo dân Thái Hà làm bung xung; Coi thường pháp luật và vi phạm pháp luật;Việc đem ảnh tượng Chúa Mẹ vào việc tranh giành đất đai là lợi dụng tôn giáo; Các linh mục Dòng Chúa Cứu thế đã và đang xuyên tạc sự thật về vụ Giáo xứ Thái Hà.
Trong thư của tỉnh Dòng Chúa Cứu thế Việt Nam gửi tất cả linh mục Việt Nam trên toàn quốc, thư đề ngày 30-8-2008, tường trình vụ Giáo xứ Thái Hà trong chiều hướng có lợi cho mình và quy trách nhiệm cho Nhà nước và các cơ quan truyền thông, rồi kêu gọi: “Trong hoàn cảnh không có phương tiện để tự bảo vệ mình và làm sáng tỏ công lý, kính xin quý cha thương cầu nguyện và nâng đỡ chúng con”.
Xuyên tạc sự thật để đánh lừa dư luận, vu khống chính quyền, để kích động giáo dân, họ đang ngày càng lộ nguyên hình đầu cơ chính trị khoác áo tu hành…
3. Báo Điện tử Đài tiếng nói Việt Nam có bài: “Việt Nam giữ vị trí quan trọng trong chính sách của Anh”. Bài báo phản ánh: Bộ trưởng Tư pháp Anh Jack Straw: Chính phủ Anh rất nỗ lực trong việc tăng cường quan hệ với Việt Nam. Bản thân Thủ tướng Anh Gordon Brown rất quan tâm thúc đẩy quan hệ giữa hai nước.
Theo tinh thần của thỏa thuận giữa hai Thủ tướng về quan hệ giữa Việt Nam và Anh, trong đó 5 lĩnh vực hợp tác ưu tiên của hai nước là thương mại, phát triển, giáo dục, chính sách đối ngoại và tư pháp.
Trả lời phỏng vấn Đài BBC (Anh) trước khi kết thúc chuyến thăm Việt Nam từ 11 đến 13/9, Bộ trưởng Tư pháp Anh Jack Straw khẳng định Việt Nam giữ vị trí quan trọng trong chính sách của Chính phủ nước này.
Bộ trưởng Straw cho biết chuyến thăm Việt Nam lần này quan trọng trên nhiều cấp độ, trước hết là để mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ giữa hai chính phủ và sau đó là tăng cường hiểu biết giữa nhân dân hai nước.
Trong những cuộc gặp với các nhà lãnh đạo Việt Nam, ngoài nhiệm vụ thúc đẩy hợp tác về tư pháp, Bộ trưởng Straw cho biết ông cũng đề cập tới các lĩnh vực khác như đối ngoại và nhiều chủ đề khác mà hai bên cùng quan tâm.
Theo ông Straw, Thủ tướng Việt Nam đã ngỏ ý muốn Anh giúp đỡ Việt Nam nhiều hơn trong lĩnh vực giáo dục và kinh nghiệm về môi trường. Trong cuộc hội đàm với Bộ trưởng Tư pháp Việt Nam, hai bên đã bàn về một thỏa thuận hỗ trợ tư pháp song phương về cả các vấn đề hình sự, dân sự và thương mại./.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh có bài: “10 năm cung cấp văn bản miễn phí”. Bài báo phản ánh: Chương trình đã cung cấp miễn phí hơn 2,5 triệu trang văn bản cho hàng trăm ngàn bạn đọc. Ngày càng chuyên nghiệp hơn.
Tựa như chiếc gậy dẫn đường, các văn bản pháp luật luôn được xem là bạn đồng hành của nhiều giới, nhiều ngành, giúp mọi người có cơ sở pháp lý giải quyết công việc. Ấy thế mà khoảng chục năm trước đây, việc có trong tay văn bản pháp luật từng là mong muốn xa vời vợi đối với nhiều đối tượng.
Nhiều người dân muốn xin cấp “giấy đỏ”, “giấy hồng” nhưng không rõ nhà, đất mình có được cấp giấy chứng nhận hay không, hồ sơ gồm những giấy tờ gì... Có người muốn làm giấy khai sinh trễ hạn nhưng không biết đến phường hay đến quận, cần nhờ ai làm chứng... Có người muốn khiếu nại về việc đền bù, giải tỏa nhưng không rõ các cán bộ làm đúng hay sai, theo quy định nào, phải gửi đơn đến đâu... Chính các cơ quan nhà nước cũng lúng túng khi giải quyết công việc vì văn bản cũ đã hết hiệu lực, văn bản mới lại chưa có... Nhiều cơ quan ban hành văn bản lại “giấu kín” văn bản và chỉ đồng ý cấp phát cho một số đối tượng hạn chế theo kiểu “ban ơn”. Trong bối cảnh văn bản bị khan hiếm như thế, một số đơn vị đã đứng ra kinh doanh văn bản với giá rất cao khiến nhiều người không có khả năng mua về.
Phát biểu trên Báo Pháp Luật TP.HCM hồi tháng 9-1998, nhiều chuyên gia công tác tại các sở, ngành cũng phải thốt lên: “Văn bản liên quan trực tiếp đến công tác quản lý mà chúng tôi nhận được rất chậm, thậm chí còn không nhận được”. Nhiều doanh nghiệp cũng phàn nàn vì phải khốn khổ để “săn” văn bản: “Công báo không đăng hết các loại văn bản. Tìm mòn mắt cũng khó thấy văn bản thuộc lĩnh vực đặc thù như hải quan, thuế...”.
Vậy là chương trình cung cấp văn bản pháp luật miễn phí của Báo Pháp Luật TP.HCM đã ra đời.
“Coi chừng chương trình sẽ... đứt hơi sớm!” - đã có ý kiến lo ngại như vậy. Nhưng rồi chương trình đã “sống khỏe” và lớn dần trong 10 năm. Số lượng văn bản và lượt bạn đọc đến với chương trình năm sau đều cao hơn năm trước. Nhớ những ngày đầu, danh mục văn bản cung cấp chỉ được đăng vỏn vẹn vài hàng mà giờ đã chiếm cả một góc báo trong mỗi số thứ hai hàng tuần. Trung bình mỗi ngày có khoảng 30-40 lượt bạn đọc đến xin cung cấp văn bản miễn phí. Từ khi thành lập đến nay, chương trình đã cung cấp miễn phí hơn 2,5 triệu trang văn bản cho hàng trăm ngàn bạn đọc.
Một bạn đọc ở Hải Phòng phân trần rằng ông đang gặp rắc rối vì sếp của ông “sính” văn bản có dấu mộc đỏ của Báo Pháp Luật TP.HCM. Nếu Báo không chịu cấp văn bản cho ông qua đường bưu điện là ông... chết liền! Chương trình chỉ cung cấp cho các bạn đọc đến trực tiếp nhưng lý do ngồ ngộ của ông đã thuyết phục được các nhân viên của chương trình.
Nhiều cán bộ công tác tại các cơ quan nhà nước luôn đều đặn đến nhận văn bản mỗi tuần. Như họ lý giải, nếu chờ văn bản đến theo đường văn thư thì có mà dài cổ. Nhiều khi luật đã có hiệu lực cả tháng thì cơ quan mới nhận được. Các doanh nghiệp thường dễ dàng khai thác văn bản trên mạng nhưng cũng phải bó tay trước những loại công văn. Có khi doanh nghiệp điền vào phiếu đề nghị cung cấp văn bản hàng chục loại công văn nóng hổi của Tổng cục thuế.
Bạn đọc đến với chương trình rất đa dạng như anh thợ hồ, người làm thuê, cán bộ tư pháp phường, xã, thư ký tòa án, doanh nghiệp, giảng viên, sinh viên, luật sư... Người cần văn bản để phục vụ công tác, để theo đuổi khiếu kiện. Thậm chí có người xin văn bản chỉ nhằm nghiên cứu trước để khi cần thì mang ra sử dụng.
Báo cũng có bài: “Pháp lệnh “chết”, có “chôn” thông tư theo?”, phản ánh việc: Tòa không kê biên vì nhà của bị đơn đang thế chấp ngân hàng. Tháng 10-2007, tòa xử sơ thẩm buộc bị đơn phải trả cho bà N. hơn tám tỷ đồng. Bị đơn kháng cáo. Trong khi chờ xử phúc thẩm, bị đơn rút giấy tờ nhà từ ngân hàng ra, bán sạch cho người khác. Thế là sau khi có bản án phúc thẩm, bị đơn không còn tài sản để thi hành án.
Cho rằng bị đơn tẩu tán tài sản, bà N. kiện tiếp ra tòa quận X yêu cầu tuyên việc mua bán nhà kia vô hiệu. Căn cứ bà viện dẫn cho việc khởi kiện là Thông tư liên tịch số 12 năm 2001 của Bộ Tư pháp, VKSND tối cao: “Sau khi có bản án, quyết định của tòa, người phải thi hành án đã chuyển nhượng các tài sản của mình thì chấp hành viên có quyền kê biên tài sản đó và có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ giao dịch đó. Người được thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khởi kiện yêu cầu tòa hủy bỏ giao dịch đó”.
Tuy nhiên, tòa quận X đã trả đơn kiện. Theo tòa, Thông tư 12 hướng dẫn Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993, trong khi đến năm 2004 đã có Pháp lệnh Thi hành án dân sự mới. Ở một buổi tập huấn nghiệp vụ gần đây, TAND TP cho rằng Thông tư 12 đương nhiên hết hiệu lực vì pháp lệnh mới không đề cập đến vấn đề này.
Trong khi đó, theo Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đinh Trung Tụng, về nguyên tắc, nếu có pháp lệnh mới thay thế pháp lệnh cũ thì đương nhiên các văn bản hướng dẫn của pháp lệnh cũ sẽ “chết” theo. Tuy nhiên, với những hướng dẫn cũ không trái, không mâu thuẫn với với pháp lệnh mới thì trong khi chưa có hướng dẫn thay thế nó vẫn được áp dụng. Tương tự, bà N. cũng cho rằng Thông tư 12 vẫn còn hiệu lực vì không trái với pháp lệnh mới và Bộ Tư pháp cũng chưa ra thông tư hướng dẫn mới.
Vậy Thông tư 12 còn “sống” hay đã “chết”? Thiết nghĩ cơ quan chức năng nên sớm minh định lại nguyên tắc để các tòa vận dụng thống nhất, bởi hiện nay với những tranh chấp yêu cầu tuyên giao dịch vô hiệu như của bà N., tòa thì thụ lý, tòa lại không.
2. Báo Gia đình và Xã hội có bài: “Công chứng tư “kén” hợp đồng?”. Bài báo phản ánh: Đến nay, cả nước có hơn 30 Văn phòng công chứng tư (VPCC) đi vào hoạt động. Đây là bước đột phá trong việc xã hội hóa các hoạt động hành chính tư pháp, tạo thuận lợi cho nhân dân. Tuy nhiên, bước đầu cũng đã có những phàn nàn về hoạt động này.
Theo quy định của Luật Công chứng thi hành từ 1/7/2007, không có sự khác nhau về giá trị pháp lý của Văn phòng công chứng và Phòng công chứng. Khác biệt duy nhất là Phòng công chứng được sự “bảo trợ” về tài chính của Nhà nước, còn Văn phòng công chứng thì cá nhân phải tự chủ tài chính. Tuy nhiên, với tâm lý vẫn mang nặng “cái gì thuộc về Nhà nước thì yên tâm hơn”, nên người dân vẫn còn e ngại khi đến với các VPCC.
Trao đổi với PV Báo GĐ&XH, TS. Trần Thất - Vụ trưởng Vụ Hành chính Tư pháp (Bộ Tư pháp), Cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động công chứng cho rằng, luật đã quy định quyền và nghĩa vụ của các công chứng viên như nhau nên họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các văn bản pháp lý mà mình đã “chứng”. Giá trị pháp lý của các văn bản trên trước cơ quan tố tụng là như nhau. “Không có điều gì phải lo ngại. Người dân phải thay đổi nếp nghĩ, thói quen đó. Bởi tới đây, mô hình Văn phòng công chứng sẽ là mô hình thay thế cho các Phòng công chứng hiện nay”, ông Thất cho biết.
Ông Phan Tự Phương, ngõ 12 Tôn Đản (Hà Nội), cán bộ của một công ty nhà đất bày tỏ quan điểm: “Tôi vẫn thích đến Phòng công chứng hơn, dù cũng rất mệt mỏi. Trước ngày 1/8, dấu của Phòng công chứng có hình quốc huy còn VPCC thì không, nhìn bề ngoài đã thấy có vẻ yên tâm. Bây giờ, tuy các Phòng công chứng mới đổi dấu giống VPCC, nhưng tôi vẫn công chứng văn bản tại các Phòng công chứng”.
Ông Bùi Huy Văn, ngõ 44, phố Vũ Trọng Phụng (Quận Thanh Xuân, Hà Nội), cho rằng, một số cán bộ VPCC mới ra trường được nhận ngay vào làm việc, nên kinh nghiệm thẩm định hồ sơ, giấy tờ chưa có nhiều, không cẩn thận là sơ hở để các đối tượng lừa đảo lợi dụng, đặc biệt với các giao dịch là động sản và bất động sản đang có tranh chấp, khiếu kiện. “Một lý do đơn giản là các VPCC vẫn chưa có hệ thống kết nối với các cơ quan tố tụng về những động sản và bất động sản bị hạn chế giao dịch hoặc cấm giao dịch”, ông Văn phân tích.
Trao đổi với PV GĐ&XH, công chứng viên Đào Anh Dũng - Trưởng Văn phòng công chứng Ba Đình, số 3C, đường Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội cho biết, khó khăn lớn của các VPCC là hệ thống thông tin về công chứng hiện nay với kho dữ liệu khá nghèo nàn, gây khó khăn cho việc nắm bắt thông tin, xử lý các giao dịch. Ông Dũng chia sẻ: “Chúng tôi không được tiếp cận các thông tin mang tính chính thức về các tài sản là động sản, bất động sản bị hạn chế giao dịch hoặc cấm giao dịch từ các cơ quan như tòa án, viện kiểm sát, công an hay thi hành án dân sự. Do đó, nếu sơ suất thì việc bồi thường tiền tỉ là cái chắc. Rủi ro quá lớn”.
Ông Dũng hiến kế, Vụ Hành chính Tư pháp và các cơ quan như Sở Tư pháp các tỉnh và hệ thống công chứng cả nước (hoặc ít ra từng địa phương) cần có một hệ thống thông tin kết nối về các loại giao dịch đã được công chứng hoặc không đủ điều kiện công chứng, từ đó biết mà tránh. Cũng cùng luồng ý kiến trên, ông Trần Công Trục - Trưởng Văn phòng công chứng Thăng Long (54 Trần Nhân Tông, Hà Nội) - “bật mí”: “Có trường hợp đi công chứng nơi khác không được, quay về Văn phòng chúng tôi đề nghị công chứng, nhưng bị từ chối. Họ tưởng mình mới mở nên không nắm được thông tin về giao dịch đó. Rất may chúng tôi lại biết”.
Giải tỏa những lo ngại này, ông Phạm Thanh Cao - Trưởng phòng Bổ trợ Tư pháp (Sở Tư pháp Hà Nội) cho biết: Kho cơ sở dữ liệu này đang được Sở Tư pháp triển khai nhanh chóng trong thời gian tới, để tạo điều kiện tối đa cho các công chứng viên khi thực hiện công việc của mình.
Tuy mới đi vào hoạt động, bên cạnh sự thuận lợi mà các VPCC mang lại, đến nay cũng đã có những phàn nàn của nhân dân về một số VPCC. Chị Mai Thúy, phố Giảng Võ, Hà Nội, kể lại: “Nhà tôi ở nội thành, cách một VPCC khoảng 4km, tôi có đề nghị văn phòng đến nhà công chứng giúp một hợp đồng đơn giản, đã đầy đủ giấy tờ thủ tục. Nhưng khi đến làm việc, họ đòi giá là 1.200.000đ vì còn phải chi phí đi ôtô, làm ngoài giờ hành chính... Giá như vậy là quá cao, dù tôi biết đây là “thỏa thuận ngoài hợp đồng” không nằm trong quy định tại thông tư 93 về lệ phí công chứng”.
Trường hợp khác là ông NĐT (đề nghị giấu tên), trú tại quận Đống Đa, Hà Nội cho biết, khi mang sổ đỏ ra công chứng tại một Văn phòng công chứng thì nhận được thái độ khá thờ ơ của nhân viên. “Đáng lẽ ra, họ có thể từ tốn giải thích cho chúng tôi công chứng sổ đỏ thì về phường, chứ không nên có thái độ thờ ơ như thế”- ông T góp ý.
Một hiện tượng mà không ít người dân kêu ca là với những hợp đồng, giao dịch có giá trị không cao, số phí thu thấp, nên có VPCC không muốn “chứng” bằng cách để cán bộ giải thích lằng nhằng, khó hiểu buộc khách hàng phải... ra về.
Được biết, trước những bất cập này, trong tuần tới, Bộ Tư pháp sẽ làm việc với Sở Tư pháp Hà Nội và tiến hành kiểm tra hoạt động của một số VPCC nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, cũng như chấn chỉnh hoạt động nếu họ có biểu hiện chưa thực hiện đúng quy định.
3. Báo Kinh tế & Đô thị có bài: “Còn nhiều bất cập để giải quyết vấn đề con nuôi”. Bài báo phản ánh: Bên cạnh mặt tích cực, tạo ra những thay đổi căn bản trong việc giải quyết các vấn đề nuôi con nuôi quốc tế, Nghị định số 68 của Chính phủ ban hành năm 2002 cũng đang tồn tại không ít những bất cập, khuyết điểm cần tháo gỡ.
Theo ông Vũ Đức Long, Cục trưởng Cục Con nuôi quốc tế thì chính những kẽ hở trong các quy định của pháp luật về vấn đề con nuôi quốc tế, một số cá nhân tìm các làm sai lệch giấy tờ nguồn gốc trẻ, một số công chức nhà nước, một số cán bộ có chức quyền ở địa phương thì tiếp tay cho những hành vi trục lợi này, khiến quyền và lợi ích cơ bản của trẻ em bị xâm hại, gây ra hậu quả khôn lường cho xã hội.
Qua một số vụ án liên quan đến vấn đề này cho thấy tính phức tạp trong việc kiểm soát các giấy tờ liên quan đến nguồn gốc đích thực của trẻ. Điều này cũng cho thấy sự buông lỏng quản lý ở các cơ sở nuôi dưỡng, chạy theo lợi ích vật chất kinh tế, thậm chí còn có sự cấu kết giữa các cơ sở nuôi dưỡng và những vệ tinh bên ngoài để đưa trẻtừ các nơi về cơ sở nuôi dưỡng. Sau đó, một số cán bộ đã tìm cách hợp thức hóa bằng các giấy tờ bỏ rơi (theo các quy định của Nghị định 158/CP) để cho trẻ làm con nuôi người nước ngoài. Ông Long cũng nói thêm, mặc dù Điều 32 của Nghị định 76 của Chính phủ đã quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp đối với các hành vikhai báo gian dối để đăng ký việc cho, nhận con nuôi; tẩy xóa hoặc sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ; lợi dụnggiới thiệu trẻ em làm con nuôi nhằm mục đích vụ lợi; làm dịch vụ môi giới hoặc cho, nhận con nuôi trái pháp luật…song các quy định này rất ít được áp dụng. Thủ tục phát hiện, xem xét xử lý các vấn đề vi phạm về giấy tờ…còn phức tạp và ít tính khả thi, trừ trường hợp những vụ việc nghiêm trọng đã bị khởi tố hình sự, được đưa ra công luận.
Một số ý kiến khác thì cho rằng, hiện nay một số thủ tục quy định trong Nghị định 68 chỉ được các địa phương thi hành một cách hình thức, chiếu lệ như thông báo tìm mái ấm trên phương tiện thông tin đại chúng trong vòng một tháng. Thậm chí, có nơi không hề thông báo nhưng lại có được giấy tờ xác nhận đã thông báo trên đài phát thanh hoặc trên vô tuyến truyền hình. Có trường hợp, người ta còn cố gắng "thông báo" để không ai biết mà tìm đến xin con nuôi.
Nhằm phát huy những mặt tích cực của cơ chế mới, gần đây nhất, tại Nghị định số 93 ngày 22/8/2008, Chính phủ đã quyết định thành lập Cục Con nuôi thay cho Cục Con nuôi quốc tế, thống nhất quản lý nhà nước về nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi quốc tế. Thời gian tới, chúng ta phải đẩy mạnh tuyên truyền để toàn xã hội nhận thức được yêu cầu bất di bất dịch của Công ước La Hay rằng, cho trẻ làm con nuôi nước ngoài là biện pháp cuối cùng khi không thể nào thu xếp được một mái ấm ở trong nước.
Việc đánh giá và tiếp tục hoàn thiện các quy định của Nghị định 68 nêu trên sẽ là cơ sở quan trọng để xây dựng dự án Luật nuôi con nuôi dự kiến sẽ được ban hành vào năm 2010.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 16/9/2008, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp.