Trong buổi sáng ngày 31/3/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Doanh nghiệp làm có đủ 'nuôi' ngân hàng?. Bài báo phản ánh: Việc cho vay lãi suất thoả thuận đối với các khoản vay trung và dài hạn sau thời gian ngắn triển khai đã vượt quá sức chịu đựng của nhiều doanh nghiệp (DN). Không chỉ DN kêu mà ngân hàng (NH) cũng đang lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan
Lợi nhuận DN 10%, lãi vay 18%: Ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ TPHCM cho biết, lãi suất cao đang cùng với chi phí đầu vào tăng mạnh so với cuối năm 2009 đang làm nhiều DN lao đao. Ông Vị thừa nhận, hiện có rất nhiều dự án đầu tư của các DN trong Hội đã bị ngưng trệ vì lãi suất quá cao. Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Cty Sadaco Trần Quốc Mạnh cho rằng lợi nhuận của ngành chế biến gỗ chỉ dưới 10%, trong khi lãi suất đã lên tới 18%/năm nên DN có vay được vốn cũng làm không đủ để nuôi NH. Phó Tổng GĐ một DN xây dựng bức xúc vì ông không hiểu nhiều người dựa vào đâu mà cho rằng với lãi suất 17-18%/năm thì DN vẫn làm ăn được và doanh nhân sẽ cân nhắc kỹ càng, dùng vốn vay hiệu quả hơn.
Ngay trong cuộc họp với UBND TPHCM ngày 29-3, nhiều DN đã than phiền lãi suất hiện quá cao và DN rất khó tiếp cận vốn để sản xuất kinh doanh. Đại diện Tổng Cty Thương mại Sài Gòn (SATRA) cho biết, mức lãi suất phổ biến hiện nay 15-16%/năm là khá cao. TS Lê Thẩm Dương (ĐH Ngân hàng TPHCM) đánh giá NHNN cho phép NH cho vay lãi suất thoả thuận với các khoản vay trung và dài hạn là hướng đi đúng nhưng áp dụng vào thời điểm này sẽ gây khó cho nhiều DN. Lãnh đạo nhiều DN đồng tình chấp nhận lãi suất thỏa thuận nhưng mức lãi suất phải hợp lý vì với tình hình hàng loạt nguồn nguyên liệu, chi phí tăng như hiện nay thì họ phải có lợi nhuận đến 30%/năm mới đủ trả lãi NH. Một chuyên gia kinh tế nhận định với mức lạm phát chưa cao và lợi nhuận thấp của nhiều DN hiện nay thì lãi suất 18%/năm quả là vay nặng lãi. Nguồn vốn thời gian qua rõ ràng không căng thẳng như giữa năm 2008, nhưng lãi suất cho vay lại đang xấp xỉ như trước! Ông Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội DN vừa và nhỏ VN cho rằng, dù là lãi suất thoả thuận thì mức cho vay cũng chỉ nên tối đa là 16%/năm, còn lên tới 18-20%/năm thì rất khó khăn cho cả DN và nền kinh tế. Cho dù lãi suất đã được thỏa thuận theo mong muốn của nhiều NH nhưng do lãi cao, điều kiện khó nên DN ngại vay. Tổng GĐ một NH thừa nhận với lãi vay 16-18% thì chỉ có các DN có nội lực mạnh mới dám vay, trong khi họ dễ tìm các nguồn vốn khác. Còn các DN vừa và nhỏ hoặc doanh nghiệp có kế hoạch kinh doanh, sản xuất chưa đáp ứng đủ các tiêu chuẩn của NH thì khó được giải ngân vì NH sợ nợ xấu. Giới NH cũng đang lo ngại nhiều DN vướng sức ép về nợ nần, đến hạn hợp đồng, phát triển sản xuất, chi phí nhân công... sẽ chấp nhận lãi cao rồi tính sau! Ông Đặng Văn Thành, Chủ tịch HĐQT Sacombank khẳng định: Các NH rà soát và kiểm tra rất kỹ đối tượng vay vốn. Tuy nhiên, NH sẽ gặp phải nghịch lý: kỹ quá khó cho vay, còn nới lỏng lại đối mặt với rủi ro. Phó Tổng Giám đốc NH ACB Nguyễn Thanh Toại cho biết, NH phải đa dạng hoá các sản phẩm chứ thời gian này khó trông chờ thu lợi nhiều từ việc cho DN vay. Các NH đang trông chờ NHNN bỏ trần lãi suất huy động để có thêm nguồn vốn cho vay, nhưng nếu DN không đủ sức chịu lãi vay cao thì dòng vốn vẫn có nguy cơ bị tắc. Hàng loạt NH đã đưa ra mục tiêu lợi nhuận năm 2010 cao hơn so với 2009 và đẩy mạnh thu từ các hoạt động phi tín dụng. Tuy nhiên lãi từ cho vay vẫn sẽ chiếm một tỷ trọng lớn như các năm trước.
2. Báo Điện tử Chính phủ có bài Tỉnh thứ hai hoàn thành giai đoạn 2 Đề án 30. Bài báo phản ánh: Kết thúc giai đoạn 2 Đề án 30, tỉnh Bắc Giang đã kiến nghị đơn giản hóa các quy định hiện hành về thủ tục hành chính đạt 66%, vượt chỉ tiêu tối thiểu là 30%. Đây là địa phương thứ hai trong toàn quốc hoàn thành giai đoạn 2 Đề án 30. Theo ông Nguyễn Đức Kha, Chánh Văn phòng UBND tỉnh Bắc Giang, Tổ trưởng Tổ công tác Đề án 30 của tỉnh, qua rà soát 1.875 TTHC, Tổ công tác kiến nghị giữ nguyên 416 TTHC, thay thế 142 TTHC, hủy bỏ 149 TTHC, sửa đổi và bổ sung 1.168 TTHC, đạt 66% tỷ lệ kiến nghị đơn giản hoá. Tổ công tác đã tổ chức 18 hội nghị lấy ý kiến các sở, ngành, huyện, thị về bộ TTHC cấp huyện, xã. Có 19/19 sở, ngành tổ chức lấy ý kiến của cán bộ trong cơ quan về rà soát TTHC. Theo ông Nguyễn Văn Linh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, việc tổ chức, triển khai giai đoạn 2, giai đoạn trọng tâm của Đề án 30, được tiến hành trên diện rộng, thực sự tạo bước chuyển biến rõ rệt trong nhận thức của cán bộ, công chức và nhân dân.
“Giám đốc các sở, ngành, Chủ tịch UBND các huyện tiếp tục rà soát các TTHC còn thiếu, phối hợp chặt chẽ với Tổ công tác chuyên trách của tỉnh triển khai thực thi phương án đơn giản hóa TTHC thuộc thẩm quyền, để TTHC không còn là “điểm nghẽn” trong cải cách hành chính trên một số lĩnh vực như hiện nay. Đồng thời, xử lý nghiêm những cán bộ, công chức giải quyết TTHC gây phiền hà, sách nhiễu, không đúng quy định”, ông Linh giao nhiệm vụ cho các sở, ngành. TS. Ngô Hải Phan, Tổ phó Thường trực Tổ công tác chuyên trách Đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ nhận định: “Việc thực hiện thành công Đề án 30 không chỉ đem lại lợi ích về kinh tế, mà còn xây dựng niềm tin của nhân dân vào cơ quan công quyền và nền hành chính Nhà nước thực sự hiệu quả, dân chủ và chuyên nghiệp”.
Ông Ngô Hải Phan cũng cho rằng, để duy trì được kết quả trên, người đứng đầu các cơ quan phải thường xuyên kiểm tra không để phát sinh thủ tục mới, khắc phục tình trạng chậm trễ trong giải quyết TTHC, đảm bảo thuận lợi nhất cho nhân dân và doanh nghiệp. Quảng Ninh trở thành địa phương đầu tiên trong cả nước hoàn thành giai đoạn 2 Đề án 30 khi ngày 26/3, UBND tỉnh Quảng Ninh đã bàn giao kết quả giai đoạn 2 cho Tổ công tác chuyên trách Đề án 30 của Thủ tướng.
3. Báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh có bài phản ánh: Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định bổ nhiệm lại có thời hạn ông Hà Hùng giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc. Ông Nguyễn Thái Lai, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, được bổ nhiệm kiêm chức Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam; ông Phạm Bình Minh, Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao, kiêm chức Phó Chủ tịch Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Điện tử Vietnamnet có bài có bài Bảo hộ tên doanh nghiệp ảnh hưởng bảo hộ tên thương mại?. Bài báo phản ánh: Từ lâu tình trạng doanh nghiệp trùng tên đã là vấn đề hóc búa cho các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tư pháp, và cho cả các doanh nghiệp bị trùng tên. Nguyên nhân của việc trùng tên doanh nghiệp đáng tiếc lại có từ quy định của pháp luật doanh nghiệp. VietNamNet xin giới thiệu bài viết quan trọng của một luật sư về vấn đề đang gây nhiều rắc rối này.
Theo Luật Sở hữu Trí tuệ 2005, Luật Sửa đổi, Bổ sung một số điều của Luật Sở hữu Trí tuệ 2009 và các văn bản hướng dẫn thi hành (gọi chung là “Luật SHTT”), tên thương mại là “tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh”. Một tên sẽ được bảo hộ như tên thương mại nếu tên này “không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại mà người khác đã sử dụng trước trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh”. Mặc dù Luật SHTT đã đưa ra một loạt các tiêu chí để xác định yếu tố “trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn” của một dấu hiệu, Luật SHTT đã không xác định được “khu vực kinh doanh” là gì. Trong Luật SHTT, “khu vực kinh doanh” được định nghĩa là “khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng”, nhưng định nghĩa này là không rõ ràng. Liệu theo định nghĩa này thì “khu vực kinh doanh” có thể được hiểu là bất kỳ khu vực địa lý nào mà doanh nghiệp phân phối sản phẩm đến? Hay “khu vực kinh doanh” là nơi doanh nghiệp đó đặt trụ sở chính, chi nhánh hay thậm chí chỉ là nơi doanh nghiệp đặt văn phòng giao dịch? Ví dụ, liệu một doanh nghiệp sản xuất nước mắm có được bảo hộ tên doanh nghiệp của mình như tên thương mại tại tỉnh Y trong lúc một doanh nghiệp khác cùng ngành đang sử dụng cùng tên đó cho sản phẩm của mình tại tỉnh Z? Quyền đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó trong hoạt động kinh doanh và trên cơ sở sử dụng trước. Luật không yêu cầu phải đăng ký bảo hộ tên thương mại. Chủ sở hữu tên thương mại được quyền sử dụng tên thương mại trong các hoạt động kinh doanh của mình, như thể hiện tên thương mại đó trên các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản phẩm, bao bì, v.v…. Vì thế, nếu “X” được sử dụng trên các bao bì sản phẩm, hàng hoá, quảng cáo của một doanh nghiệp, về nguyên tắc “X” sẽ được xem là tên thương mại (nếu tên này thoả mãn các điều khác của Luật SHTT như đã nói) và doanh nghiệp này sẽ được coi là chủ sở hữu của tên thương mại “X”.
Nhiều người cho rằng tên của doanh nghiệp là, hoặc ít ra được xem là, tên thương mại. Tuy nhiên, không có bất kỳ văn bản luật nào xác nhận điều này. Theo Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành (gọi chung là “Luật DN”), tên của doanh nghiệp bao gồm hai thành tố: (1) loại hình doanh nghiệp, như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, v.v…, và (2) tên riêng của doanh nghiệp.Nghĩa là, ví dụ như, nếu X là tên riêng của doanh nghiệp, tên của doanh nghiệp sẽ là “Công ty TNHH X”. Ngoài ra, “doanh nghiệp có thể sử dụng ngành, nghề kinh doanh, hình thức đầu tư hay yếu tố phụ trợ khác để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp […]”.Ví dụ, cơ quan đăng ký kinh doanh có thể chấp nhận tên “Công ty TNHH Nước mắm X” là tên doanh nghiệp. Quyền đối với tên doanh nghiệp được xác lập khi doanh nghiệp đăng ký tên này trong quá trình đăng ký kinh doanh với cơ quan đăng ký kinh doanh tại tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp dự định đặt trụ sở chính.Doanh nghiệp, sau đó, phải (và có quyền) viết hoặc gắn tên doanh nghiệp tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp và in hoặc viết tên doanh nghiệp trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do doanh nghiệp phát hành.Do đó, nếu căn cứ theo định nghĩa về tên thương mại (là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và “khu vực kinh doanh”), việc sử dụng tên doanh nghiệp theo những cách này có thể khiến tên doanh nghiệp trở thành tên thương mại. Tuy nhiên, tên doanh nghiệp không nhất thiết luôn luôn là tên thương mại. Vì hai lý do sau. Thứ nhất, như đã nói ở phần trên của bài viết, khái niệm “khu vực kinh doanh” trong định nghĩa tên thương mại là không rõ ràng và gần như không giúp xác định được “khu vực kinh doanh” là gì. Thứ hai, phạm vi bảo hộ của tên thương mại khác phạm vi bảo hộ của tên doanh nghiệp. Điểm này sẽ được nói rõ ở phần kế tiếp của bài viết. Theo Luật DN, tên của một doanh nghiệp có thành phần tên riêng trùng với tên riêng của doanh nghiệp đã đăng ký sẽ không được cơ quan đăng ký kinh doanh chấp nhận. Nghĩa là, về mặt nguyên tắc, nếu tên “Công ty TNHH X” đã được đăng ký, các doanh nghiệp khác sẽ không thể sử dụng tên có thành phần tên riêng là “X” để tiến hành đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, cơ chế bảo hộ này chỉ giới hạn trong phạm vi tỉnh, thành phố, mà cụ thể là tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp liên quan tiến hành đăng ký kinh doanh. Do đó, nếu “Công ty TNHH X” được đăng ký tại tỉnh Y, Luật DN không cấm doanh nghiệp khác đăng ký tên “Công ty TNHH X” tại tỉnh Z.Quy định như vậy, Luật DN rõ ràng đã tạo ra nhiều khó khăn, phức tạp khi áp dụng Luật trong thực tế. Không những làm xuất hiện một số lượng lớn các doanh nghiệp trùng tên trên toàn quốc, quy định này còn gây khó khăn cho chế định bảo hộ tên thương mại theo Luật SHTT (sẽ được nói rõ ở dưới đây). Rõ ràng rằng doanh nghiệp sẽ sử dụng tên doanh nghiệp trên bao bì hàng hoá, sản phẩm của mình, ví dụ như bao bì sản phẩm sẽ ghi “sản phẩm của Công ty TNHH X”. Bằng cách này, tên doanh nghiệp có thể được xem là tên thương mại theo Luật SHTT. Tuy nhiên, theo Luật DN, một doanh nghiệp khác (“doanh nghiệp thứ hai”) lại hoàn toàn có quyền đóng gói sản phẩm của mình với cùng một cách tương tự như doanh nghiệp kia (“doanh nghiệp thứ nhất”), do doanh nghiệp thứ hai này đã đăng ký kinh doanh với cùng tên doanh nghiệp tại một tỉnh, thành phố khác. Do đó, tên của doanh nghiệp thứ hai cũng có thể được xem là tên thương mại. Câu hỏi đặt ra ở đây sẽ là, (1) doanh nghiệp nào sẽ được bảo hộ theo Luật SHTT, và (2) cơ chế bảo hộ sẽ như thế nào?
Giải pháp duy nhất cho tình trạng chồng chéo giữa Luật DN và Luật SH chỉ có thể là: thứ nhất, Luật SHTT phải được sửa đổi để làm rõ khái niệm “khu vực kinh doanh” trong định nghĩa tên thương mại. Hiện tại, thẩm phán, luật sư, v.v… giải thích khái niệm “khu vực kinh doanh” theo kiểu mỗi người một ý. Thứ hai, Luật DN cũng phải được sửa đổi mà cụ thể là phần quy định về tên doanh nghiệp, để các quy định này không gây ra thêm khó khăn, phức tạp khi áp dụng Luật trong thực tế và không gây ảnh hưởng đến các chế định bảo hộ tên thương mại theo Luật SHTT như hiện nay.
2. Báo Điện tử Đài tiếng nói Việt Nam có bài HĐND TP Hà Nội góp ý Dự thảo Luật Thủ đô. Bài báo phản ánh:Nhiều đại biểu ủng hộ đề xuất của Ban soạn thảo về quy định cho phép HĐND Thành phố có thẩm quyền quy định mức thu phí xây dựng, môi trường và giao thông ở khu vực nội đô cao hơn mức trung bình không quá 3 lần. Ngày 30/3, HĐND Thành phố Hà Nội đã thảo luận và góp ý vào Dự thảo Luật Thủ đô. Giới thiệu về bản mới nhất của Dự thảo Luật, ông Võ Văn Tuyền, Vụ trưởng Vụ các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp cho biết đây là bản có nhiều nét mới và có 5 vấn đề còn nhiều luồng ý kiến khác nhau như việc hạn chế cư trú ở một số khu vực nội đô trong Dự thảo Luật là trái với quy định tại Điều 68 của Hiến pháp. Theo ông Tuyền, quan điểm của Ban soạn thảo là “việc trao cho Chính phủ thẩm quyền quy định điều kiện cư trú ở khu vực nội đô, đồng thời quy định các biện pháp nhằm khuyến khích dân cư sinh sống, làm việc ở khu vực ngoại đô của Hà Nội là phù hợp với chủ trương của Đảng, hợp hiến, đã được pháp luật quy định; cũng là điều hết sức cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc tế”.
Ban soạn thảo đưa ra 5 lý do để chứng minh cho nhận định này. Trong đó, liên quan đến quản lý di dân, theo Điều 68 của Hiến pháp, công dân có quyền tự do cư trú theo quy định của pháp luật. Ban soạn thảo cho rằng, nên quy định giao Chính phủ ban hành quy định về điều kiện cư trú ở khu vực nội đô và các biện pháp khuyến khích cư trú ở ngoại đô nhằm bảo đảm mục tiêu dân cư được quản lý theo quy hoạch chung Thủ đô là không trái với Hiến pháp. Về vấn đề này, các đại biểu tỏ ra đồng tình và không có ý kiến thêm. Nhiều đại biểu HĐND Thành phố ủng hộ đề xuất của Ban soạn thảo về quy định cho phép HĐND Thành phố có thẩm quyền quy định mức thu phí xây dựng, môi trường và giao thông ở khu vực nội đô cao hơn mức trung bình không quá 3 lần; cho phép chính quyền Thủ đô quy định mức phạt lấn chiếm và sử dụng đất sai mục đích cao hơn mức phạt chung cho cả nước tối đa gấp 5 lần. Đây là nội dung đã được Ban soạn thảo điều chỉnh theo hướng giới hạn cả mức phạt lẫn đối tượng, lĩnh vực tăng mức phạt. Tuy nhiên, nhiều đại biểu cho rằng bản dự thảo lần này còn nhiều thiếu sót trong cách nhìn nhận, bao quát các vấn đề. Đại biểu Trần Trọng Hanh, Ban Pháp chế nhấn mạnh: “Phát triển đô thị và nông thôn của Thủ đô là khái niệm rộng lớn… Các quy định về phát triển trong dự thảo quá đơn giản, không đủ và không có khả năng điều chỉnh được các hoạt động đầu tư, xây dựng và phát triển Thủ đô bao gồm cả phát triển đô thị và phát triển nông thôn; về vật thể và phi vật thể”. Về quản lý đô thị, ông Trần Trọng Hanh đã đề xuất nhiều phương pháp, trong đó có việc nghiên cứu áp dụng thí điểm chế độ thị trưởng thay thế cho chủ tịch UBND các cấp hiện nay. Theo ông Hanh, có như vậy thành phố mới phát huy tối đa quyền chủ động, tính thống nhất trong tổ chức thực hiện các kế hoạch, quy hoạch phát triển Thủ đô trong tương lai. Ngoài ra, cần thành lập Ủy ban Vùng Thủ đô vận hành theo chế độ chủ tịch luân phiên và Chính phủ cử người tham gia. Ông Hanh cũng đề xuất nên thay thế chế độ Kiến trúc sư trưởng bằng Ủy ban quy hoạch và phát triển Thủ đô, vì đây là mô hình được áp dụng thành công ở nhiều nước trên thế giới.
Đại biểu Đào Xuân Mùi cho rằng, kiến trúc nội đô của Hà Nội hiện rất xấu, phức tạp, cần có sự đột phá trong quản lý mới có thể tạo được sự thay đổi. Theo ông, trong Luật nên giao cho thành phố và các cơ quan Trung ương có một thời hạn nhất định để tập trung cao độ nhân lực, vật lực hoàn thành quy hoạch xây dựng chi tiết nội đô, sau đó mới bắt đầu cấp phép xây dựng thì mới khắc phục được tình trạng lộn xộn như hiện nay. Kết luận hội nghị, bà Ngô Thị Doãn Thanh, Chủ tịch HĐND Thành phố Hà Nội nhấn mạnh yêu cầu về chất lượng của Luật Thủ đô phải được đặt lên hàng đầu và khẳng định, HĐND TP sẽ tập hợp tất cả ý kiến của đại biểu thành văn bản để chuyển tới Ban soạn thảo nghiên cứu, xem xét.
3. Báo Điện tử Dân trí có bài Một vụ việc dân sự làm “đau đầu” ngành tư pháp. Bài báo phản ánh: Hai chị em ruột tranh chấp 5,15m2 đất sau đền bù giải phóng mặt bằng, qua 2 cấp xét xử vẫn không ngã ngũ. Cả 2 bản án đều “khéo tuyên” phần nhà mà bỏ qua phần đất - yếu tố chính xác định sự thật khách quan vụ việc.
Cách đây 5 năm, bà Nguyễn Thị Phi (trú tập thể Thanh Xuân Bắc, quận Thanh Xuân) khởi kiện ra TAND quận Hai Bà Trưng yêu cầu em ruột mình là bà Nguyễn Thị Quỳnh (trú tổ 38 phường Tương Mai, quận Hoàng Mai) trả lại nhà trên diện tích đất 5,15 m2 tại số 513 đường Trần Khát Chân. Tại bản án số 14/2005/DS-ST (ngày 15/6/2005), của TAND quận Hai Bà Trưng do thẩm phán Bùi Tiến Trung xét xử đã tuyên: “… Xác định bà Phi là chủ sở hữu của phần vật liệu xây dựng căn nhà cấp 4 diện tích 5,15m2 tại 513 Trần Khát Chân. Buộc bà Quỳnh phải trả lại bà Phi căn nhà cấp 4 có diện tích 5,15m2…”. Không chấp nhận bản án sơ thẩm, bà Quỳnh đã kháng cáo, đồng thời bà còn làm đơn tố cáo một số người có hành vi gian lận, chiếm dụng đất của Nhà nước đã đền bù tại khu vực 511 và 513 Trần Khát Chân trong đó có diện tích 5,15 m2 nhà tranh chấp. Về diện tích đất 5,15 m2 này, đại diện Ban quản lý dự án quận Hai Bà Trưng (ngày 26/9/2005) và Hội đồng xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở phường Cầu Dền (ngày 11/11/2005) xác nhận “đất đã được đền bù giải phóng mặt bằng làm đường Trần Khát Chân”. Tại bản án phúc thẩm số 208/2005/DS-PT (ngày 30/9/2005) TAND TP Hà Nội tuyên: Xác định bà Phi là chủ sở hữu của căn nhà cấp 4 diện tích đất 5,15 m2 tại 513 Trần Khát Chân và buộc bà Quỳnh trả bà Phi căn nhà nói trên. Không thể xác định diện tích đất đang tranh chấp thuộc về bên nào hay đất công, HĐXX phúc thẩm kiến nghị: “UBND cấp có thẩm quyền điều tra, nếu 5,15m2 đất của căn nhà nói trên do bà Nguyễn Thị Phi tái lấn chiếm sau khi bị thu hồi thì phải xử lý…”.
Sau khi tuyên, bản án phúc thẩm của TAND TP Hà Nội lập tức có hiệu lực pháp luật. Liên tục nhận được đơn đề nghị thi hành án của bà Phi nhưng cơ quan Thi hành án quận Hai Bà Trưng không thể thi hành vì cả 2 bản án trên đều không tuyên rõ ràng, cụ thể diện tích đất 5,15m2 tạm giao cho ai, đơn vị nào quản lý và sử dụng. Trong khi đó bà Quỳnh liên tục gửi đơn khiếu nại, tố cáo đến nhiều cơ quan Nhà nước kèm theo nhiều hồ sơ mới về vụ việc. Tại báo cáo số 811/BC-UBND (ngày 16/10/2008) và báo cáo số 843/BC-UBND (ngày 28/10/2008) gửi đoàn Đại biểu Quốc hội, UBND quận Hai Bà Trưng nêu rõ: Ban chỉ đạo thi hành án dân sự quận đã giao cho các cơ quan chức năng quận kiểm tra làm rõ diện tích 5,15m2 đất tranh chấp là đất công. Tại công văn 145/UBND-TT (ngày 24/2/2009) của UBND quận Hai Bà Trưng gửi UBND TP Hà Nội và Thanh tra TP Hà Nội nêu rõ nội dung cuộc họp khối nội chính, thống nhất TAND quận làm thủ tục đề nghị tái thẩm vụ án để giải quyết triệt để. Chính vì các thiếu sót tại hai bản án nêu trên nên ngày 26/8/2009, thay mặt Ủy ban Thẩm phán, Chánh án TAND TP Hà Nội Nguyễn Sơn đã ký công văn số 1324/UBTP-TAHN báo cáo, đề xuất Chánh án TANDTC xem xét lại bản án theo thủ tục tái thẩm. Theo tìm hiểu của PV, ngay thời điểm vụ việc tranh chấp nhà 5,15m2 giữa bà Phi và bà Quỳnh đã có rất nhiều hồ sơ của chính quyền địa phương khẳng định nhà này nằm trên diện tích đất công nhưng khi đó cấp tòa sơ thẩm vẫn xét xử và chỉ xem xét đến yếu tố nhà - nguyên nhân mọi rắc rối của vụ việc.