Điểm tin báo chí các ngày 08, 09 tháng 3 và sáng ngày 10 tháng 3 năm 2014

10/03/2014
Trong các ngày 08, 09/3 và đầu giờ sáng ngày 10/3/2014, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Điện tử Một thế giới có bài UBND quận 7 kéo dài thời gian thi hành án gây thiệt hại cho người dân. Bài báo phản ánh: Thua kiện nhưng kéo dài thời gian thi hành án, gây thiệt hại cho người dân. Coi thường bản án phúc thẩm dù đã có hiệu lực pháp luật. Lãnh đạo quận nói nhưng không giữ lời... Đó là tất cả những gì UBND quận 7 đang làm.

Ngày 7.3, bà Triệu Thụy Diễm Trang cho phóng viên Một Thế Giới biết, hiện gia đình đang mất hết niềm tin và tuyệt vọng đến cùng cực vì thông báo nộp thuế, phí của chính quyền quận 7.

Theo đó, bà Trang sẽ phải nộp gần 5 triệu đồng thuế thu nhập cá nhân. Cay đắng hơn, bà Trang phải nộp hơn 40 triệu đồng tiền sử dụng đất.

Như vậy, sau nhiều năm kể từ khi có bản án phúc thẩm của TAND TP.HCM, buộc UBND quận 7 phải thi hành bản án cấp sổ đỏ cho bà Trang, bây giờ mọi thứ gần như quay về từ đầu.

Hồ sơ vụ án xác định, năm 1991, bà Trang mua một ngôi nhà hơn 30 mét vuông ở phường Tân Thuận Tây, quận 7. Thời điểm này chưa có luật đất đai nên theo quy định, bà Trang được cấp sổ đỏ.

Tuy nhiên, khi bà Trang đi làm thủ tục cấp sổ thì UBND quận 7 căn cứ trên một văn bản của bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hơn 18 mét vuông. Phần đất còn lại, nếu muốn cấp sổ, bà Diễm Trang phải đóng tiền sử dụng đất. Không đồng tình, bà Diễm Trang khởi kiện.

Trong lần xử sơ thẩm, TAND quận 7 bác đơn khởi kiện của bà Trang. Sau đó, năm 2008, TAND TP.HCM trong lần xử phúc thẩm đã buộc UBND quận 7 phải cấp sổ đỏ cho bà Trang. Điểm chú ý là sau khi có bản án phúc thẩm, nhiều năm liền UBND quận 7 vẫn không chịu thực hiện văn bản có giá trị pháp lí cao nhất này. TAND TP.HCM phải ra một văn bản giải thích bản án nhưng quận 7 vẫn chây ì.

Cuối năm 2013, trong một lần trả lời phóng viên, ông Lê Văn Thành, trưởng phòng Tài nguyên và môi trường quận 7 nói quận đang tiến hành cấp sổ cho bà Diễm Trang.

Đầu năm 2014, bà Diễm Trang chưa kịp mừng vì sẽ được cấp sổ đỏ thì chính quyền quận 7 gửi thông báo bà Trang phải đóng gần 50 triệu đồng.

“Như vậy, quận 7 cố tình đưa mọi việc quay trở lại từ đầu, rằng gia đình chúng tôi sẽ phải tiếp tục đóng tiền và phải khiếu nại tiếp. Tôi quá hụt hẫng và không đồng tình.” Bà Diễm Trang nói.

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Người liên quan muốn THA không được. Bài báo phản ánh: Pháp luật phải quy định người liên quan được quyền yêu cầu thi hành án đối với phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Bà Hoàng Yến Hằng (quận 12, TP.HCM) phản ánh: Năm 1998, Ngân hàng Phương Nam ủy quyền cho Công ty Trần Kim và bà Trần Kim Diệp (Chủ tịch HĐQT Công ty Trần Kim) bán lại một lô đất cho bà. Trong quá trình mua bán, công ty không thanh toán tiền cho ngân hàng nên năm 2002, ngân hàng khởi kiện ra TAND quận 12, yêu cầu công ty hủy bỏ hợp đồng ủy quyền và giải quyết hậu quả.

Sau đó, tòa tuyên hợp đồng ủy quyền giữa ngân hàng và công ty vô hiệu. Ngân hàng trả cho công ty hơn 7 tỉ đồng tiền bồi thường thiệt hại, công ty và bà Diệp trả lại cho bà Hằng (người liên quan) khoảng 9 tỉ đồng. Bà Hằng phải giao đất đã mua cho ngân hàng. Tuy nhiên, khi án có hiệu lực, bà Hằng muốn trả lại đất để nhận tiền như bản án đã tuyên nhưng các đương sự liên quan không thực hiện.

Về việc này, lãnh đạo Chi cục Thi hành án (THA) dân sự quận 12 cho biết công ty và ngân hàng không làm đơn yêu cầu THA nên không thể phát sinh các quan hệ như bản án đã tuyên. Chưa kể là hiện nay phía công ty lại ngưng hoạt động. Do đó, dù bà Hằng có bức xúc, cơ quan THA cũng không thể làm gì hơn ngoài việc đôn đốc các bên liên quan THA…

Qua sự việc của bà Hằng, các chuyên gia pháp lý cho rằng pháp luật đang có nhiều lỗ hổng, chưa bảo vệ được người liên quan như trường hợp của bà Hằng.

Ông Trần Quốc Học (Phó Chi cục trưởng Chi cục THA dân sự quận 8, TP.HCM) cho biết hiện nay pháp luật chỉ quy định người được THA và người bị THA có quyền yêu cầu THA chứ không có quy định người liên quan được yêu cầu THA. Do vậy, những quyền lợi của người liên quan không được đảm bảo. Thực tế, trong ngành THA gặp rất nhiều trường hợp này. Các cơ quan chức năng cần phải nghiên cứu bổ sung thêm quy định để giúp người liên quan bảo vệ được quyền lợi của mình.

Cụ thể, pháp luật phải quy định người liên quan được quyền yêu cầu THA đối với phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Nếu người được THA, người bị THA không thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người liên quan thì cũng sẽ bị cưỡng chế. Thiết nghĩ trong một số trường hợp, người liên quan là nạn nhân của vụ việc nên cần có những biện pháp cụ thể để bảo vệ quyền lợi của họ.

3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Sẽ kiểm điểm chi cục trưởng THA quận 12. Bài báo phản ánh: Cục Thi hành án (THA) dân sự TP.HCM sẽ chủ trì việc xem xét kiểm điểm trách nhiệm của ông Nguyễn Văn Quy - Chi cục trưởng Chi cục THA dân sự quận 12.

Như đã thông tin năm 2008, bà Nhân Thị Kim Oanh tặng cho ông Lê Đức Tuyên miếng đất ở phường Tân Thới Nhất và ông này đã được cấp giấy đỏ. Thế nhưng năm 2010, để thi hành một bản án buộc bà Oanh trả nợ cho người khác, Chi cục THA dân sự quận 12 lại kê biên miếng đất trên (do xác định là của bà Oanh) để bán đấu giá. Ông Trần Xuân Hiếu trúng đấu giá, sau đó cũng được cấp giấy đỏ, đến năm 2012 thì chuyển nhượng cho ông Thuận. Khi ông Thuận làm giấy đỏ thì quận 12 cho biết: “Chưa có cơ sở giải quyết hồ sơ, lý do mảnh đất trên được cấp trùng với ông”. 

Tháng 11-2013, Vụ Kiểm sát THA dân sự VKSND Tối cao đã vào cuộc giải quyết vụ việc. Ngày 13-12-2013, UBND quận 12 cho rằng việc cấp giấy đỏ cho ông Hiếu là không đúng pháp luật nên đã ra quyết định thu hồi. Ngày 14-1-2014, ông Hiếu gửi đơn lên Chi cục THA quận 12 yêu cầu bồi thường hơn 1,2 tỉ đồng.

Trả lời Pháp Luật TP.HCM (bài “Làm sai, THA phải bồi thường tiền tỉ” ngày 14-2), đại diện Chi cục THA dân sự quận 12 nói: “Chúng tôi sẽ mời ông Hiếu đến để thỏa thuận mức bồi thường. Qua đó, tiền gốc gần 1 tỉ đồng chắc chắn phải trả cho ông Hiếu và sẽ căn cứ tiếp vào mức lãi suất của ngân hàng để bảo vệ quyền lợi cho họ thỏa đáng. Nếu thỏa thuận được thì không phải ra tòa”.

Tuy nhiên, mới đây trao đổi với phóng viên, Chi cục trưởng Nguyễn Văn Quy xin đính chính: “Chúng tôi sẽ mời ông Hiếu lên làm việc rồi hướng dẫn ông ấy khởi kiện ra tòa. Không phải chúng tôi không có thiện chí mà do không có tiền bồi thường”.

Được biết, Cục THA dân sự TP sẽ để cho ông Quy và ông Hiếu tự thương lượng mức bồi thường, nếu không thương lượng được thì mới ra tòa. Khi ấy, căn cứ vào bản án của tòa, Cục THA sẽ chuyển toàn bộ hồ sơ lên Tổng cục THA để xem xét, rót tiền bồi thường, sau đó mới quy trách nhiệm số tiền mà ông Quy phải hoàn trả lại cho Nhà nước.

4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thuê “xã hội đen” đòi nợ, xu hướng đáng lo ngại. Bài báo phản ánh: Biết là phi pháp, mang lại nhiều rủi ro nhưng vì ngán ngẩm thủ tục thi hành án nên các DN chọn thuê “xã hội đen” đòi nợ.

Mới đây, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức hội thảo “Luật thi hành án dân sự - góc nhìn từ doanh nghiệp (DN)” tại Hà Nội. Tại hội thảo này, VCCI đã công bố các khảo sát liên quan và đưa ra những con số khá bất ngờ về tỉ lệ thành công khi DN thuê các lực lượng phi chính thức (được cho là “xã hội đen’’) thu hồi nợ cao đến 90%. Trong khi đó nếu khởi kiện ra tòa và thu nợ qua cơ quan thi hành án (THA) thì hiệu quả thu hồi chỉ khoảng 50%. Để hiểu rõ thực, hư về những con số này, Pháp Luật TP.HCM đã có cuộc trao đổi đầu tuần với ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế VCCI, đơn vị thực hiện cuộc khảo sát này.

Phóng viên: Ông có thể nói cụ thể hơn về cuộc khảo sát này? Cơ sở nào để đưa ra kết quả nói trên?

+ Ông Đậu Anh Tuấn: Hội thảo trên được tổ chức nhằm góp ý cho Dự thảo Luật sửa đổi Luật THADS năm 2008. Để chuẩn bị cho hội thảo này, VCCI tiến hành phỏng vấn sâu với nhiều luật sư, DN thu hồi nợ, chấp hành viên, chuyên gia pháp luật và đặc biệt chúng tôi có tiến hành một khảo sát nhỏ tại 15 DN được THA (10 DN) và phải THA (năm DN) thời gian qua.

Một trong những kết quả của khảo sát này cho thấy nếu có một khoản nợ thông thường thì sẽ có ba hình thức thu nợ phổ biến mà DN sử dụng là khởi kiện ra tòa và thông qua thủ tục THA, sử dụng dịch vụ thu nợ hợp pháp và sử dụng “xã hội đen” đòi nợ. Có sự khác biệt về thời gian, chi phí và tỉ lệ thành công của ba hình thức này. Chẳng hạn, nếu qua quy trình chính thức kiện ra tòa án và THA thì thời gian bình quân đến 400 ngày, chi phí mất khoảng 20%-30% khoản nợ (chưa kể khoản phi chính thức) và tỉ lệ thành công từ 50% đến 60%. Còn nếu qua hình thức “xã hội đen” thì thời gian ngắn hơn (từ 15 đến 30 ngày), chi phí khá cao (40%-70% khoản nợ) và tỉ lệ thành công cũng cao (80%-90%).

Theo ông, kết quả khảo sát này có phản ánh một cách tương thích với tình hình thực tiễn không?

+ Đây là khảo sát quy mô nhỏ, trong thời gian ngắn với mục tiêu phục vụ cho cuộc thảo luận về Dự thảo Luật sửa đổi Luật THA của VCCI, do vậy việc sử dụng cũng hết sức cẩn trọng. Diện khảo sát chưa lớn, mẫu khảo sát chưa thực sự chuẩn bị tốt nên chúng tôi cũng chưa tự tin để khẳng định nó phản ánh hay đại diện hoàn hảo cho toàn bộ bức tranh hiện nay. Dù rằng những thảo luận tại hội thảo cũng như những phản hồi sau đó được nhiều DN, luật sư và chuyên gia đều ủng hộ kết quả này.

Tuy nhiên, đây là xu hướng đáng lo ngại. Thủ tục THA nếu quá phức tạp, tốn kém và kém tin cậy thì quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và DN sẽ khó được đảm bảo. Khi nhóm khảo sát của VCCI phỏng vấn, có DN còn than rằng: “Lúc đầu tôi nghĩ là có bản án của tòa thì có thể đòi được tiền rồi. Thế mà vẫn gặp khó khăn khi THA”. Những trở ngại này ảnh hưởng đến lòng tin của DN vào các kênh chính thức và đó là lý do khiến không ít DN có xu hướng chuyển sang sử dụng những kênh phi chính thức.

Vì sao DN lại tin vào khả năng thu hồi nợ của “xã hội đen” - lực lượng phi chính thức hơn là qua cơ quan THA bằng con đường khởi kiện ra tòa?

+ Theo tôi, lý do chính có lẽ là tính hiệu quả của hệ thống chính thức không cao. Tỉ lệ bản án được thi hành và tỉ lệ THA thành công ở Việt Nam hiện nay quá thấp. Chính báo cáo của Tổng cục THA đã cho thấy điều đó, nhiều địa phương trong cả nước như Hà Nội, Hải Phòng và TP.HCM tỉ lệ THADS thành công chỉ xấp xỉ 30%.

Ngoài tỉ lệ thành công thấp, còn nguyên nhân như đã nói trên đây là thủ tục phức tạp và mất nhiều thời gian. Trong 10 DN đã được THA vừa rồi mà chúng tôi khảo sát thì có đến ba DN cho biết nếu gặp vụ việc tương tự họ sẽ không khởi kiện nữa. Từ trải nghiệm của mình, họ quá ngán ngẩm về thủ tục trong THA. Chắc không DN nào muốn đằng đẵng thời gian dài theo đuổi một vụ kiện, có được bản án rồi lại tiếp tục toát mồ hôi xoay sở để nó được thi hành và khả năng thất bại thì rất lớn.

Việc DN tin vào khả năng thu hồi nợ của các lực lượng phi pháp hơn kênh chính thống như vậy phản ánh điều gì và có ảnh hưởng như thế nào đến việc xây dựng một xã hội pháp quyền hiện nay?

+ Việc sử dụng dịch vụ thu hồi nợ qua kênh phi chính thức như “xã hội đen” tôi tin chắc không phải là điều nhiều DN mong muốn. Nó không hợp pháp, mang lại rủi ro và thậm chí họ sẽ bị xử lý hình sự nếu để lại hậu quả. Nhìn rộng ra bên ngoài xã hội cũng như vậy, chúng ta đã thấy tình trạng người dân tự xử những kẻ trộm chó một cách man rợ như thế nào, đánh đập những người trộm cắp tài sản nhỏ đến chết mà họ không báo chính quyền, không thực hiện đúng quy định của pháp luật. Tôi tự hỏi liệu tình trạng trên có nguyên nhân từ tính nghiêm minh của pháp luật chưa được đảm bảo hay không? Liệu có phải người dân và DN kém tin vào mức độ hiệu quả, công bằng của hệ thống chính thức hay không?

Liệu các khoản chi phí bôi trơn trong quá trình kiện tụng, THA cũng là một trong những lý do khiến DN ít nhờ đến tòa án và cơ quan THA hơn?

+ Đúng là các khoản chi phí không chính thức trong quá trình kiện tụng tại tòa án và THA là một nguyên nhân làm giảm hiệu lực và hình ảnh của tòa án và cơ quan THA.

Kết quả một cuộc điều tra hơn 8.000 DN, dân doanh tại 63 tỉnh, thành của VCCI thực hiện năm 2012 cho một kết quả đáng suy nghĩ. Trong phần câu hỏi về tranh chấp, có những DN trong năm gần nhất có tranh chấp nhưng không đưa ra tòa án (761DN), chúng tôi có hỏi lý do gì khiến những DN này không sử dụng tòa án. Hơn 53% DN cho rằng có phương thức giải quyết tranh chấp khác tòa án phù hợp hơn, một số khác cho rằng thời gian giải quyết tại tòa án quá dài, chí phí cao… Con số đáng chú ý là có 16% DN cho rằng họ không sử dụng tòa án vì tình trạng “chạy án” phổ biến. Bản thân kết quả khảo sát 15 DN có liên quan đến việc THA nói trên cũng có DN phản ánh có tình trạng chấp hành viên vòi vĩnh.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin về Những thông tin chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nổi bật trong tuần (từ 29/2-7/3/2014).

- Xem xét giảm lãi suất, thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu

Tại Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2/2014, Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương tập trung chỉ đạo triển khai quyết liệt các giải pháp theo Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết các phiên họp thường kỳ của Chính phủ, Công điện số 179/CĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt là nhiệm vụ tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.

- Đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết về một số giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Theo đó, Chính phủ giao các bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hội đồng thành viên các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước, Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty các doanh nghiệp Nhà nước quán triệt và làm tốt công tác tư tưởng theo các nghị quyết, kết luận của Đảng về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước.

- Kiên quyết thay thế lãnh đạo DN thực hiện cổ phần hóa DNNN không có kết quả

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ, Chủ tịch Hội đồng thành viên tập đoàn kinh tế chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về kết quả tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thuộc phạm vi phụ trách. Kiên quyết thay thế, điều chuyển lãnh đạo doanh nghiệp chần chừ, không nghiêm túc thực hiện, thực hiện không có kết quả tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và nhiệm vụ chủ sở hữu giao trong quản lý, điều hành doanh nghiệp.

- Áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng vào cơ quan hành chính nhà nước

Thủ tướng Chính phủ quyết định  áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước.

Theo đó, các cơ quan hành chính nhà nước phải xây dựng và áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng: gồm: Bộ, cơ quan ngang Bộ, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (Bộ, ngành); UBND  tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện.

Đồng thời Thủ tướng Chính phủ yêu cầu phải xây dựng và áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng đối với các hoạt động liên quan đến thực hiện thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân.

- Thực hiện các biện pháp cấp bách phòng cháy, chữa cháy rừng

Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương tăng cường các biện pháp cấp bách phòng cháy, chữa cháy rừng.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo UBND các cấp và các cơ quan chức năng tăng cường quản lý các hoạt động canh tác nương rẫy, quy định cụ thể khu vực nghiêm cấm đốt nương làm rẫy và những hành vi dùng lửa khác ở những khu vực trọng điểm, có nguy cơ cháy rừng cao.

- Xử lý nghiêm hành vi vi phạm hành lang bảo vệ an toàn lưới điện cao áp

Khi phát hiện hành vi vi phạm về hành lang bảo vệ an toàn lưới điện cao áp, đơn vị quản lý phải yêu cầu dừng ngay các hành vi vi phạm. Đây là trách nhiệm của đơn vị quản lý vận hành lưới điện cao áp được quy định tại Nghị định Nghị định 14/2014/NĐ-CP của Chính phủ.

- Tái cơ cấu thị trường vận tải

Đến năm 2020 tái cơ cấu thị trường vận tải nội địa theo hướng giảm thị phần vận tải bằng đường bộ, tăng thị phần vận tải bằng đường sắt và đường thủy nội địa. Đây là một trong những mục tiêu cụ thể của Chiến lược phát triển dịch vụ vận tải đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 mà Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt.

Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển dịch vụ vận tải đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 là nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, giảm chi phí vận tải, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và bảo vệ môi trường, đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu vận tải hàng hóa, hành khách và tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đưa Việt Nam từng bước trở thành trung tâm trung chuyển hàng hóa và hành khách của khu vực, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh.

- Không để tội phạm lộng hành

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chương trình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Chương trình đặt ra mục đích, yêu cầu là thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, yêu cầu đề ra trong Nghị quyết số 63/2013/QH13 về tăng cường các biện pháp phòng, chống tội phạm, tập trung nâng cao hiệu quả phòng ngừa, phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm, đặc biệt là tội phạm có tổ chức, tội phạm về tham nhũng; làm giảm các loại tội phạm đang gia tăng (như: Giết người do mâu thuẫn cá nhân, nhất thời, tội phạm ma túy, tội phạm liên quan đến chiếm đoạt tài sản, sử dụng công nghệ cao, trốn thuế, cho vay lãi nặng…); làm giảm số đối tượng bị truy nã còn ở ngoài xã hội.

- Tăng mức tín dụng cho công trình nước sạch ở nông thôn

Các hộ gia đình ở nông thôn có nhu cầu xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp các công trình nước sạch và vệ sinh môi trường có thể vay tới 6 triệu đồng/hộ, cho mỗi loại công trình tại Ngân hàng Chính sách xã hội. Đây là một trong những điểm mới tại Quyết định số 18/2014/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung Điều 3 của Quyết định số 62/2004/QĐ-TTg ngày 16/4/2004 về tín dụng thực hiện Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.

- Xử lý nghiêm ô tô khách chở quá số người quy định

Tại Thông báo số 92/TB-VPCP, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia yêu cầu Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Sở Giao thông vận tải các địa phương tăng cường quản lý hoạt động kinh doanh vận tải khách bằng ô tô, kiểm tra chặt chẽ phương tiện và người lái về các điều kiện an toàn trước khi xuất bến; kiểm tra và xử lý nghiêm tình trạng ô tô khách chở quá số người, tăng giá vé quá quy định.

- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát hoạt động xuất khẩu gạo

Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải  vừa giao Bộ Công Thương, Bộ Tài chính chỉ đạo các địa phương, lực lượng chức năng tăng cường kiểm tra, kiểm soát hoạt động xuất khẩu gạo không để xảy ra bất thường ảnh hưởng xấu đến tình hình xuất khẩu gạo, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm theo đúng quy định.

- Kiểm tra, làm rõ nguyên nhân nứt ở trụ cầu Vĩnh Tuy

Liên quan đến sự xuất hiện vết nứt trụ cầu Vĩnh Tuy, TP. Hà Nội, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải  yêu cầu Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông vận tải, UBND thành phố Hà Nội kiểm tra, làm rõ và xử lý theo thẩm quyền, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

2. Báo Điện tử Kiến thức có bài Quản lý công chức: Quy định bất khả thi, Bộ Nội vụ bất lực. Bài báo phản ánh: Việc Bộ Nội vụ ban hành dự thảo quy định cấm công chức lãng phí thời gian vào những việc vô ích, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân là một việc làm cần thiết.

Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, những quy định này rất thiếu tính khả thi; bởi nước ta có đến hàng trăm nghìn công viên chức, khó mà quản lý được tất cả những việc làm của họ trong giờ hành chính. Nhiều ý kiến quan ngại, nếu không áp dụng được vào thực tiễn, thì sẽ có thêm một quy định nữa “chưa chào đời đã chết yểu”.

Bàn về vấn đề này, Chủ tịch Hội đồng khen thưởng, kỷ luật - Đoàn luật sư Hà Nội, Luật sư Nguyễn Hoàng Tiến nhận định, thực tế, để thực thi được qui định trên là việc rất khó khăn, vì nó chỉ trông chờ vào sự tự giác của mỗi người, hoặc mọi người nhắc nhở nhau cùng tự giác thực hiện. 

Là một chuyên gia nghiên cứu nhân học, PGS.TS Nguyễn Văn Tiệp cho hay, dự thảo trên của Bộ Nội vụ cho thấy một tình trạng đáng lo ngại hiện nay là các cơ quan quản lý nhà nước đã bất lực trong việc quản lý công chức, viên chức thực thi nhiệm vụ được giao. 

Nói về nguyên nhân dẫn đến việc công chức bỏ bê làm việc, PGS.TS Tiệp nhìn nhận, ở nước ta, phần đông công viên chức đồng lương không đảm bảo cuộc sống. Để mưu sinh, họ phải làm thêm những công việc khác nên đến muộn, về sớm hay bỏ việc giữa giờ cũng là điều dễ hiểu, kể cả việc kiếm sống trên đối tượng phục vụ của mình là người dân bằng cách làm khó họ để người dân đến cơ quan công quyền phải có tiền lót tay, bôi trơn mới được việc. Để làm công việc này giữa cơ quan nhà nước là không nên.

Vì thế, họ phải tìm chỗ khác để thực hiện những giao dịch dân sự như quán cà phê, quán ăn, thậm chí tại nhà riêng để thực hiện những quan hệ dân sự. Nên việc cấm cán bộ ngổi quán cà phê, quán ăn, bỏ việc cơ quan là điều khó mà thực hiện được, vì liên quan đến túi tiền của họ. Tiêu cực phát sinh từ đó và nhân lên ngày một phình to ra khó có cách cứu chữa.

“Một nghịch lý khác ở Việt Nam, công chức, viên chức nhà nước đồng lương không đủ sống nhưng có rất nhiều người vẫn tìm đủ mọi cách để được làm “cán bộ nhà nước”, để “chính danh”, có vị thế xã hội nhất định, có một số quyền hạn nhất định được nhà nước ban cho nên họ dựa dẫm vào đó để kiếm sống, không có quyền hạn đó họ không dễ gì sống được. Vì thế nhiều người mất cả đến hàng trăm triệu đồng để được làm "cán bộ nhà nước".

Bộ trưởng Phạm Vũ Luận mới có một phát biểu rất hay là “Tiến sĩ giấy chỉ làm việc được trong cơ quan nhà nước”. Tham những cũng từ đó phát sinh, từ nhu cầu của những người này. Luật công chức hiện nay buông lỏng cơ chế tuyển dụng cán bộ, nên một số người có chức có quyền tự nghĩ ra một quy trình rất lạ, cứ tuyển dụng người ồ ạt rồi “từ người suy ra việc chứ không phải từ việc sinh ra người”, PGS.TS Tiệp nhìn nhận.Theo PGS.TS Nguyễn Văn Tiệp, giải quyết vấn đề này không giản đơn chỉ bằng giải pháp hành chính và giáo dục. Chừng nào chưa cải cách thể chế thì cải cách hành chính dù có làm trước cũng khó mà thực hiện được. Việc đổi mới cải cách hành chính hiện nay phải tiến hành một cách tổng thể từ pháp lệnh công chức, chế độ tiền lương, các chính sách kèm theo cũng như cơ chế quản lý hành chính cán bộ công chức, viên chức, chính sách đào tạo, tuyển chọn cán bộ…

PGS.TS Tiệp cho rằng, phải theo quy trình ngược lại là "từ việc để tìm người" theo phương thức khoán việc, bao nhiêu việc cần bấy nhiêu người mà là người làm được việc, bộ máy công quyền sẽ tinh giản, đồng lương được tăng lên đủ sống thì tiêu cực xã hội sẽ giảm theo. Cơ quan nhà nước sẽ lôi kéo được những người "có tâm, có tầm" vào làm việc, ngăn chặn tình trạng chảy máu chất xám từ cơ quan nhà nước ra bên ngoài. Đồng thời, thay đổi thể chế từ vĩ mô đến vi mô, một cách tổng thể, toàn diện và căn bản, phải có tầm nhìn mới và giải pháp mới mang tính đột phá nhằm giải thể cấu trúc hệ thống hành chính hiện hành vốn lạc hậu không giống ai thì mới thực thi được cải cánh hành chính hiện nay. Cải cách thể chế trong đó có cải cách hành chính là đòi hỏi cấp bách không thể đặng đừng trong tình thế hiện nay để giải tỏa những lo âu phiền muộn không đáng có của người dân trong trạng thái quẫn bức.



File đính kèm