Điểm tin báo chí sáng ngày 27 tháng 11 năm 2013

27/11/2013
Trong ngày 26/11 và đầu giờ sáng ngày 27/11/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Công an nhân dân có bài Án đã có hiệu lực, vì sao chậm thi hành?. Bài báo phản ánh: Một vụ kiện phải trải qua nhiều cấp xét xử, thời gian giải quyết của Tòa án các cấp đã kéo dài gần 20 năm. Cuối cùng, các nguyên đơn cũng đã nhận bản án mà quyền lợi của họ được Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã tuyên. Tuy nhiên, bản án đã có hiệu lực từ năm 2011 mà đến nay vẫn chưa được thi hành.

Cụ Nguyễn Công (tức Thảo) có xây dựng một khu nghĩa địa tại thôn Bái Ân, xã Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội (nay là ngách 3, ngõ 191 Lạc Long Quân, phường Nghĩa Đô), diện tích 2.185m2 có cổng trước, cổng sau, tường rào bao quanh. Trong khu đất có một nhà thờ diện tích khoảng 27m2, một nhà văn bia khoảng 8m2, nhà cho người trông coi mộ và 22 ngôi mộ. Năm 1955 cụ Lý Thị Mùi (vợ thứ ba của cụ Nguyễn Công) thuê bà Nguyễn Thị Hội trông coi khu nhà thờ và nghĩa địa. Ngày 17/3/1958, bà Nguyễn Thị Tuyết Oanh (con cụ Nguyễn Công và cụ Mùi) và ông Nguyễn Văn Liễu lập “Giấy hợp đồng cho ở nhờ trong nghĩa địa”, trong đó có nội dung “đồng ý cho ông Nguyễn Văn Liễu ở nhờ trong nghĩa địa…”. Hợp đồng có xác nhận của Ủy ban hành chính xã Thái Đô, quận V, TP Hà Nội. Thời gian hợp đồng 5 năm (từ 17/3/1958 đến 17/3/1963).

Trong quá trình sử dụng, gia đình ông Liễu, bà Nguyễn Thị Sen không thực hiện đúng thỏa thuận trong hợp đồng mà phá bỏ cổng nghĩa địa, làm nhiều nhà và sử dụng toàn bộ diện tích đất trong nghĩa địa. Bà Oanh đã cùng các anh chị em của mình làm đơn khởi kiện, yêu cầu ông Liễu trả lại toàn bộ khu nghĩa địa và nhà bia thờ cúng.

Khi vụ án đang giải quyết thì ông Liễu mất, các con ông Liễu tiếp tục làm thêm nhiều nhà ở, nhà để xe lấn sát vào khu mộ. Nay, phía gia đình bà Oanh tiếp tục yêu cầu vợ và các con ông Liễu trả lại nhà thờ, văn bia và một phần đất nằm trong 1.467m2 đất gia đình ông Liễu đang quản lý và đã bán cho một số người khác.

Phía gia đình ông Nguyễn Văn Liễu cũng thừa nhận năm 1958 ông Liễu có ký hợp đồng ở nhờ và trông coi nghĩa địa với bà Oanh. Sau khi gia đình ông Liễu đến ở thì bà Nguyễn Thị Hội báo cho biết là khu nhà đất nghĩa địa này đã được cải cách ruộng đất chia cho bà Hội. Vậy nên ông Liễu đã thỏa thuận đổi cho bà Hội phần đất ông Liễu được chia ở ngoài đồng. Việc đổi đất hai bên có làm giấy xác nhận của Ban chấp hành Nông hội xã Thái Đô ngày 9/10/1959. Ông Liễu đã làm nhà ở, nộp thuế cho Nhà nước, kê khai đứng tên trong sổ địa chính từ năm 1987 đến nay, gia đình bà Oanh không có giấy tờ chứng minh khu đất này là của mình, giấy cho ở nhờ đã hết hạn từ năm 1963.

Năm 1995, Tòa án nhân dân TP Hà Nội đã đưa ra xét xử vụ việc trên, quyết định bác yêu cầu đòi nhà đất, nghĩa địa của gia đình bà Tuyết Oanh, giữ nguyên tình trạng các ngôi mộ, yêu cầu gia đình ông Liễu không được xâm phạm vào mồ mả, không được gây trở ngại đến việc thăm viếng mồ mả của gia đình bà Oanh.

Không đồng ý với quyết định trên, bà Nguyễn Thị Tuyết Oanh đại diện cho các nguyên đơn kháng cáo. Từ năm 1996 đến năm 2006, vụ việc được đưa ra xét xử nhiều lần với nhiều quyết định khác nhau. Đến năm 2006, TAND TP Hà Nội thụ lý lại vụ án.

Bản án dân sự sơ thẩm 60/2010/DSST ngày 28/10/2010 của TAND TP Hà Nội đã chấp nhận yêu cầu của bà Tuyết Oanh đại diện các nguyên đơn đòi nhà thờ, nhà văn bia và một phần quyền sử dụng đất do gia đình cụ Nguyễn Thị Sen và các con đang quản lý, sử dụng. Sau khi gia đình bà Sen có đơn kháng cáo, ngày 29/7 và 1/8/2011, TAND Tối cao tại Hà Nội đã mở phiên tòa phúc thẩm, xác nhận khu đất nghĩa địa gia đình ông Liễu đang sử dụng hiện có tranh chấp là của gia đình bà Oanh. Giấy đổi đất mà phía bị đơn đưa ra chỉ có xác nhận của Ban chấp hành Nông hội, Ban Kiến điền, Ban Thuế xã chứ không phải là xác nhận của Ủy ban hành chính xã nên không được coi là chứng cứ chứng minh khu đất đang tranh chấp là của gia đình bị đơn. Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị đơn mà giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ngày 3/1/2013, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự (THADS) Hà Nội đã ký quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu căn cứ vào Bản án phúc thẩm của TAND Tối cao và Bản án sơ thẩm của TAND TP Hà Nội. Tuy nhiên, đã hơn 2 năm trôi qua, việc thi hành án vẫn chưa hoàn tất. Ngày 22/11, Cục THADS Hà Nội cho biết, cơ quan THA đang làm các thủ tục để THA. Những người được THA (mà bà Oanh làm đại diện) vẫn đang mong mỏi được nhận lại quyền lợi theo đúng quyết định của Bản án phúc thẩm đã tuyên ngày 1/8/2011. Đề nghị cơ quan THA sớm thực hiện Bản án phúc thẩm số 140/2011/DS-PT để bảo vệ quyền lợi cho công dân.

2. Báo Diễn đàn doanh nghiệp có bài Ngân hàng BIDV Quảng Ngãi có bảo lãnh trốn nợ?. Bài báo phản ánh: Vào ngày 25/2/2011, Cty TNHH Thương mại Dịch vụ và Xây dựng Cường An Bình (Cty Cường An Bình) có trụ sở tại 693B/36 Trần Cao Vân, TP Đà Nẵng và Cty Cổ phần Bê tông ly tâm Dung Quất (Trụ sở tại xã Bình Thuận - Huyện Bình Sơn - Quảng Ngãi) có ký hợp đồng số 01/11/CAB-BTDQ về việc mua bán phụ gia xây dựng với tổng giá trị 726 triệu đồng.

Theo thỏa thuận trong hợp đồng thì trong vòng 30 ngày kể từ ngày hợp đồng được ký kết, phía Cty CP Bê tông ly tâm Dung Quất phải có trách nhiệm thanh toán tổng số tiền nợ trên cho Cty Cường An Bình. Tuy nhiên, hết thời hạn cam kết Cty CP Bê tông ly tâm Dung Quất chỉ thanh toán một phần số tiền của hợp đồng và còn nợ Cty Cường An Bình 432 triệu đồng. Mặc dù phía Cty Cường An Bình đã nhiều lần yêu cầu Cty CP Bê tông ly tâm Dung Quất hoàn trả số tiền còn nợ, nhưng Cty này không những không hợp tác mà còn thách thức và tìm cách trốn nợ. Chính vì vậy, để bảo vệ tài sản của mình, Cty Cường An Bình đã khởi kiện Cty CP Bê tông ly tâm Dung Quất ra Toà và ngày 9/03/2012, Toà án nhân dân quận Thanh Khê đã có quyết định tại bản án số 08/2012/KDTM-ST ngày 09/03/2012 về việc yêu cầu phía Cty CP Bê tông ly tâm Dung Quất phải có nghĩa vụ trả số tiền nợ gốc trên kèm theo lãi suất phát sinh chậm trả cho Cty Cường An Bình là 489.116.625 đồng. Tuy nhiên, Cty Bê tông Ly tâm Dung Quất vẫn cố tình trốn nợ, đồng thời tìm mọi cách không thực hiện các quyết định của cơ quan Thi hành án.

Nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho Cty Cường An Bình, đồng thời thực hiện theo quyết định của Toà án tại bản án số 08/2012/KDTM-ST, Chi cục Thi hành án quận Thanh Khê (Đà Nẵng) đã có quyết định Thi hành án số 13/QĐ-CCTHA ngày 17/4/2012 buộc Cty Bê tông Ly tâm Dung Quất phải trả số tiền gốc và lãi theo bản án. Mặc dù, Cơ quan Thi hành án quận Thanh Khê đã tiến hành các biện pháp cưỡng chế, phong toả và khấu trừ số tiền gốc và lãi chậm trả là 582.380.409 đồng được phát hiện có trong tài khoản 57310000000617 của Cty Bê tông Ly tâm Dung Quất tại ngân hàng BIDV Quảng Ngãi. Tuy nhiên, các quyết định khấu trừ số nợ trên của cơ quan Thi hành án không được thực hiện vì bị Ngân hàng BIDV Chi nhánh Quảng Ngãi tìm mọi cách cản trở.

Theo thông tin nhận được, ngày 10 và 11/10/2013, Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê đã ra quyết định phong toả và khấu trừ tài khoản của Cty CP Bê tông Ly tâm Dung Quất tại Ngân hàng BIDV Chi nhánh Quảng Ngãi. Tuy nhiên, ngày 15/10/2013, phía ngân hàng BIDV Quảng Ngãi đã có công văn số 2291/CV-QLRR gửi Chi cục Thi hành án quận Thanh Khê về việc không thực hiện lệnh khấu trừ số tiền phải thi hành án trong tài khoản số 57310000000617 của Cty CP Bê tông ly tâm Dung Quất. Giải thích lý do tại sao phía BIDV không thực hiện quyết định của cơ quan Thi hành án, Ông Nguyễn Văn Hùng – Phó Giám đốc BIDV Quảng Ngãi cho biết: Số tiền được chuyển về tài khoản 57310000000617 là do Ngân hàng BIDV Quảng Ngãi và Cty CP Bê tông ly tâm Dung Quất đã có Hợp đồng thế chấp được đăng ký giao dịch bảo đảm, nên phía Ngân hàng có quyền không thực hiện các quyết định của Cơ quan Thi hành án.

Tuy nhiên, theo đại diện từ phía cơ quan Thi hành hành án quận Thanh Khê thì ngân hàng BIDV Quảng Ngãi đang cố tình trì hoãn và có dấu hiệu tiếp tay cho Cty Bê tông Ly tâm Dung Quất trốn tránh nghĩa vụ thực hiện Thi hành án theo quyết định của Toà án, vì Hợp đồng thế chấp các khoản phải thu bằng giao dịch đảm bảo mà phía Ngân hàng BIDV giao kết với Cty CP Bê tông ly tâm Dung Quất được thực hiện vào ngày 26/4/2013. Trong khi đó, bản án của Toà án có hiệu lực từ ngày 9/03/2012 và quyết định thi hành án của Cơ quan thi hành án đối với người phải Thi hành án là Cty CP Bê tông ly tâm Dung Quất có hiệu lực từ ngày 17/4/2012. Điều này có nghĩa là Hợp đồng thế chấp giao dịch đảm bảo này phát sinh sau khi bản án của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê có hiệu lực hơn một năm. Và thực chất phía Cty CP Bê tông ly tâm Dung Quất thực hiện hợp đồng thế chấp bằng hình thức giao dịch bảo đảm này nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ dân sự theo như bản án của Toà án đã kết luận. Việc thẳng thừng gạt bỏ các quyết định của cơ quan thi hành án quận Thanh Khê khiến dư luận đặt câu hỏi liệu Ngân hàng BIDV Quảng Ngãi có “bảo kê” doanh nghiệp trốn nợ. Báo DĐDN sẽ cập nhật thông tin đến bạn đọc trong thời gian sớm nhất.

3. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Vụ Cục Thi hành án TPHCM trả nhà cho con nợ: Có kháng nghị, chấp hành viên vẫn bán nhà con nợ. Bài báo phản ánh: Chấp hành viên (CHV) Cục Thi hành án (THA) TPHCM Thân Minh Nghĩa và Giám đốc Ngân hàng liên doanh Việt Thái chi nhánh Sài Gòn Nguyễn Văn Minh (chủ nợ) bị ông Trương Minh Nghiêm (con nợ) tố cáo chiếm giữ trái phép căn nhà 18/82 bis Trần Quang Diệu, P14Q3, TPHCM. Dù Viện Kiểm sát nhân dân (KSND) TPHCM đã ra kháng nghị hủy biên bản giao nhận nhà nhưng CHV Nghĩa vẫn quyết mang căn nhà trên giao cho chủ nợ! Không bỏ lỡ cơ hội, Giám đốc Minh liền đem tài sản đó bán cho một đồng nghiệp với giá hời...

Ông Trương Minh Nghiêm và vợ Lê Thị Hồng Tuyết thế chấp nhà đất 18/82bis Trần Quang Diệu, P14Q3 (gọi tắt là nhà 18/82bis) cho Ngân hàng liên doanh Việt Thái (NH Việt Thái) Vinasiam Bank chi nhánh Sài Gòn để vay 1 tỷ đồng vào tháng 4-2004. Theo quyết định (QĐ) 348/2006/QĐST-KDTM ngày 14-7-2006 của TAND TPHCM, vợ chồng ông Nghiêm phải trả cho NH Việt Thái cả vốn lẫn lãi 1,254 tỷ (số tròn).

Ông Nghiêm trình bày, sau khi ra QĐ kê biên nhà đất 18/82bis ngày 2-8-2007, Cục THA dân sự TPHCM ký hợp đồng (HĐ) với Vina Control để thẩm định làm cơ sở đấu giá. Theo chứng thư thẩm định ngày 17-12-2009, nhà đất 18/82bis có giá khởi điểm 4,07 tỷ đồng. Sau hơn 29 tháng kê biên, CHV Cục THA Thân Minh Nghĩa mới ký HĐ ủy quyền ngày 7-1-2010 cho Trung tâm dịch vụ (TTDV) đấu giá tài sản TPHCM bán đấu giá nhà đất trên. Chấp hành viên Nghĩa cùng TTDV tổ chức bán đấu giá nhưng “quên” thông báo cho gia đình ông biết; việc đăng báo, niêm yết nơi có tài sản đấu giá cũng không nhớ. Chính vì thế nên không bán được dù tổ chức đến 9 phiên, cứ mỗi lần “đấu” thì nhà đất 18/82bis lại được CHV “duyệt” giá giảm xuống. Đến lần thứ 10 ngày 22-5-2012 thì thành công với mức 2,8 tỷ đồng, người “trúng” là NH Việt Thái, chủ nợ của ông Nghiêm! Trước đó, ngày 11-5-2012 Tổng giám đốc NH Việt Thái - ông Tse Hong ký QĐ giao ông Nguyễn Văn Minh (Giám đốc NH Việt Thái chi nhánh Sài Gòn) thay mặt NH tham gia đấu giá. Ngày 23-7-2012, CHV Nghĩa ký biên bản giao nhà đất cho chủ nợ.

Trong đơn tố cáo khẩn cấp gửi cơ quan chức năng, trong đó có Cục Điều tra - Viện KSND tối cao, ông Nghiêm đề nghị làm rõ ba vấn đề: thứ nhất, CHV đã “ngâm” tài sản kê biên hơn 29 tháng mới ký HĐ ủy quyền với TTDV bán đấu giá để phát mãi; thứ hai, chính CHV đã cho thẩm định giá trị nhà đất 18/82bis là 4,07 tỷ đồng, nhưng bị “phù phép” chỉ còn 2,8 tỷ qua 10 phiên đấu giá trái quy định; thứ ba, CHV và TTDV bán đấu giá cho NH Việt Thái là chủ nợ tham gia rồi “trúng” là trái pháp luật.

Ngày 23-10-2012, Phó viện trưởng Viện KSND TPHCM Dương Ngọc Hải ký QĐ kháng nghị, nêu rõ: Qua kiểm tra hồ sơ, tài liệu, viện phát hiện một số vi phạm nghiêm trọng như sau: ngày 13-7-2012, ông Nghiêm có đơn xin hoãn THA vì đã khởi kiện yêu cầu hủy kết quả đấu giá và được TAND Q.Tân Bình thụ lý, nhưng Cục THA không ra QĐ hoãn theo quy định. Ngày 23-7-2012 CHV Nghĩa lập biên bản giao nhận nhà để THA, ghi nhận việc bà Trương Kim Phụng tự nguyện thỏa thuận giao căn nhà số 18/82 bis để THA trong khi bà Phụng chỉ là người thuê căn nhà trên của vợ chồng ông Nghiêm, hoàn toàn không có tư cách pháp lý để thực hiện quyền, nghĩa vụ THA. Ông Nghiêm là chủ sở hữu nhà số 18/82 bis, là người phải THA nhưng lại không nhận được bất kỳ thủ tục nào của Cục THA về việc ngày 23-7-2012 phải giao căn nhà trên cho NH Việt Thái (người được THA cũng là người trúng đấu giá).

Viện KSND khẳng định CHV lập biên bản giao nhà đất cho NH Việt Thái là hành vi trái pháp luật. Việc Cục THA không ra QĐ hoãn THA khi ông Nghiêm đã được tòa án thụ lý đơn kiện là vi phạm điểm d khoản 1 điều 48 Luật THA dân sự. Vì các lẽ trên, Viện KSND thành phố yêu cầu Cục trưởng Cục THA dân sự TPHCM chỉ đạo thực hiện hủy bỏ biên bản giao nhận nhà ngày 23-7-2012; xác định việc tòa án đã thụ lý đơn kiện của ông Nghiêm, nếu có căn cứ thì ra QĐ hoãn THA; tổ chức kiểm điểm đối với sai phạm nêu trên và thông báo kết quả đến Viện KSND trong vòng 15 ngày.

Ngày 29-11-2012, Phó cục trưởng Cục THA Phạm Thị Thanh Loan ký văn bản gửi Viện KSND thành phố, nêu rõ cục chỉ chấp nhận một phần kháng nghị của viện. Cụ thể, cục đã chỉ đạo CHV hủy bỏ biên bản giao nhận nhà lập ngày 23-7-2012 và tiến hành các thủ tục theo quy định; đồng thời nhắc nhở, quán triệt CHV về những sai sót này và tổ chức kiểm điểm rút kinh nghiệm chung.
Ngày 22-10-2013, TAND Q.Tân Bình gửi văn bản đề nghị Cục THA cung cấp thông tin kết quả thực hiện QĐ kháng nghị của Viện KSND thành phố. Ngày 8-11-2013, CHV Nghĩa ký văn bản gửi tòa, xác định: Sau khi nhận được QĐ kháng nghị, ngày 29-11-2012 Cục THA có văn bản trả lời. Chấp hành viên đã mời ông Nghiêm đến cơ quan THA làm việc, thông báo thực hiện theo QĐ kháng nghị, sẽ giao lại nhà đất số 18/82 bis cho ông; sau đó lập biên bản, giao thông báo trả nhà ngày 29-1-2013 nhưng ông Nghiêm không nhận do đã nộp đơn kiện tại tòa đề nghị hủy biên bản đấu giá (tòa ra thông báo thụ lý ngày 14-8-2012). Ngày 6-2-2013, CHV giao nhà cho ông Nghiêm nhưng ông này vắng mặt không rõ lý do, vì vậy CHV đã giao nhà cho người mua trúng đấu giá là NH Việt Thái (!).

Trao đổi với phóng viên, ông Nghiêm cho biết trong khi chờ cơ quan chức năng giải quyết thì cuối tháng 6-2013 ông phát hiện nhà của mình đã được sửa chữa, làm mới từ trong ra ngoài, xác minh tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất Q3 biết nhà 18/82bis đã được NH Việt Thái do ông Nguyễn Văn Minh làm đại diện bán cho ông Nguyễn Văn Gặp giá 2,5 tỷ đồng theo HĐ công chứng ngày 15-5-2013. Ông Gặp đã khai thuế và đăng ký biến động (xác định chủ sở hữu mới) đối với căn nhà này ngày 30-9-2013. Ông Nghiêm phản ứng: “Ông Gặp nguyên là cán bộ lãnh đạo NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank) tỉnh Đắk Nông, sau chuyển về làm việc tại Agribank TPHCM. Trong khi đó, NH Việt Thái là liên doanh giữa bộ ba Agribank, NH Hoàng gia Thái Lan và Tập đoàn CP. Dấu hiệu thông đồng để “nuốt chửng” căn nhà của tôi dưới bàn tay của CHV Thân Minh Nghĩa càng lộ rõ hơn bao giờ hết”.

Nằm trong hoạt động giám sát của Ban Pháp chế HĐND TPHCM, tại buổi làm việc với Cục THADS TPHCM ngày 19 -11-2013 sự việc trên đã được đại biểu HĐND đưa ra chất vấn. Ông Nguyễn Văn Lực - Cục trưởng Cục THA dân sự TPHCM - khẳng định sẽ tìm hiểu và có văn bản trả lời cụ thể. 

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin Nghị trường “nóng” chuyện hôn nhân đồng giới. Bài báo phản ánh: Chủ đề hôn nhân đồng giới được nhiều đại biểu quan tâm cho ý kiến trong phiên làm việc tại Hội trường thảo luận về dự án Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi) sáng nay 26/11.

Đại biểu Nguyễn Văn Tuyết (Bà Rịa-Vũng Tàu) cho biết: Cộng đồng người đồng giới tính dưới nhiều hình thức khác nhau đã thể hiện sự mong muốn được Nhà nước công nhận và công nhận quyền được sống theo dạng giới và khuynh hướng tính dục của mình.

Theo đại biểu, dù pháp luật hiện hành đã cấm việc kết hôn giữa những người đồng giới tính nhưng việc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng giới vẫn diễn ra. Thậm chí có những trường hợp gia đình và người đồng giới đã tổ chức công khai lễ cưới. Các cơ quan Nhà nước cũng phải áp dụng các biện pháp khác nhau để xử lý nhưng vẫn không giải quyết được thực trạng này.

Theo đại biểu Tuyết: Hôn nhân giữa những người cùng giới tính là vấn đề có tính nhạy cảm xã hội cao. Việc thừa nhận hôn nhân của họ cần phải được xem xét, cân nhắc, nhìn nhận trên nhiều khía cạnh khác nhau với lộ trình và những bước đi phù hợp. Trong điều kiện nước ta thì Nhà nước quy định không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nhưng cũng không can thiệp bằng những biện pháp hành chính vào quyền được sống theo bản dạng giới và khuynh hướng tính dục của họ là phù hợp.

Thực tế kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, hiện nay có 16 quốc gia công nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Đa số các quốc gia cũng không cấm việc kết hôn những người cùng giới tính nhưng cũng không thừa nhận hôn nhân của họ. Đối với những nước thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính thì họ cũng có những lộ trình và có những bước đi thích hợp. Chính vì vậy, Đại biểu cho rằng quy định như trong dự thảo là phù hợp.

Cũng về vấn đề này, đại biểu Lê Văn Hoàng (Đà Nẵng) cho rằng đề nghị công nhận người đồng tính được chuyển đổi giới tính theo nguyện vọng và đúng giới của họ; và xác định về mặt hành chính như thay đổi tên, giới tính nam, nữ theo yêu cầu của họ sau khi được Hội đồng y khoa xác định về giới tính. Bởi hiện nay Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ mới được xác định lại giới tính chứ chưa cho chuyển đổi giới tính.

Về quy định giải quyết hậu quả của việc chung sống giữa những người cùng giới tính, đại biểu Hồ Thị Thủy (Vĩnh Phúc) cho rằng quy định giải quyết hậu quả do sống chung của người cùng giới tính như dự thảo luật là chưa phù hợp.

Bởi vì quy định quan hệ tài sản, xác định cha mẹ, con và quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con như dự thảo luật là chưa bao quát được hết những vấn đề phát sinh. Như cả hai người đồng giới cùng nhận con nuôi thì ai là mẹ nuôi, ai là cha nuôi hay cả hai người đều là cha nuôi hoặc mẹ nuôi của đứa trẻ. Quyền thừa kế tài sản khi một người qua đời có được coi như quyền thừa kế của vợ chồng không? Đại biểu cho rằng, đây là vấn đề mà dự án luật cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung.

Cùng quan điểm trên, đại biểu Trương Thị Thu Trang (Tiền Giang) khẳng định: Việc giải quyết hệ quả về tài sản của việc chung sống như vợ-chồng giữa những người cùng giới tính không thể dẫn chiếu giải quyết như việc giải quyết hệ quả của việc chung sống như vợ-chồng giữa nam và nữ. Bởi đối với những người cùng giới tính thì không thể quy định việc giải quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền lợi, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con. Do vậy, luật cần phân biệt quan hệ chung sống như vợ-chồng giữa những người khác giới và những người cùng giới tính bằng cách quy định cụ thể, tài sản hình thành trong thời kỳ chung sống là tài sản chung theo phần và được giải quyết theo quy định của pháp luật dân sự và các quy định khác có liên quan, chứ không phải là tài sản chung hợp nhất.

Cũng góp ý về chủ đề này, đại biểu Vũ Xuân Trường (Nam Định) cho rằng: Nếu đã không công nhận quan hệ về hôn nhân sẽ đồng nghĩa với việc không có xác lập việc đăng ký thời điểm hôn nhân, dẫn tới rất khó xác định thời điểm xác lập phát sinh và chấm dứt các quan hệ về tài sản. Nếu cho tranh chấp xảy ra thì việc giải quyết sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, nếu đã không thừa nhận quan hệ hôn nhân giữa những người đồng tính thì cũng không thừa nhận các quan hệ về tài sản và giải quyết tranh chấp về tài sản theo luật này, nếu có xảy ra những vấn đề tranh chấp nói trên thì nên giải quyết chung vấn đề tài sản theo Luật Dân sự.

2. Báo Điện tử Chính phủ có bài Cho phép mang thai hộ: Nên hay không?. Bài báo phản ánh: Quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nêu trong dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi được nhiều đại biểu quan tâm thảo luận. Bên cạnh những quan điểm đồng tình, cũng có không ít ý kiến đề nghị cần “tiếp tục nghiên cứu”.

Theo đại biểu Hồ Thị Thủy (Vĩnh Phúc): Mang thai hộ có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Thực tế thời gian qua, một số cặp vợ-chồng mong muốn được có con đã nhờ đến biện pháp này với những hình thức khác mà Nhà nước không quản lý được.

Vì vậy, việc đưa nội dung mang thai hộ vì mục đích nhân đạo vào dự án Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi) lần này là cần thiết, để tránh những hậu quả phức tạp xảy ra mà không có pháp luật điều chỉnh, nhất là việc đảm bảo số phận pháp lý của những đứa trẻ sinh ra.

Tuy nhiên, Đại biểu đề nghị dự thảo cần quan tâm hơn về quyền lợi của người mang thai hộ như: Quyền được đảm bảo các điều kiện cần thiết cho việc khám sức khỏe định kỳ cho người mẹ và thai nhi, các điều kiện chăm sóc sức khỏe trong thời kỳ mang thai và sau sinh.

Bên cạnh đó, dự thảo cần quy định cam kết đối với người mang thai hộ về thời điểm giao con, quan tâm, chăm sóc sức khỏe thai nhi trong thời kỳ mang thai. Đồng thời, cần quy định về nghĩa vụ của người nhờ mang thai hộ như: Đảm bảo các điều kiện cần thiết để chăm sóc sức khỏe người mang thai hộ trong quá trình mang thai và sinh con, nhất là những rủi ro không may xảy ra với cả người mang thai và đứa trẻ sinh ra.

Ngoài ra, Đại biểu đặt giả thiết trường hợp hai vợ chồng ly hôn trong thời kỳ nhờ mang thai hộ thì giải quyết như thế nào về các nghĩa vụ đối với người mang thai hộ và khi đứa trẻ sinh ra. Do vậy, dự thảo cần có quy định về việc này.

Cùng quan điểm đồng tình với quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, đại biểu Khúc Thị Duyền (Thái Bình) góp ý thêm: Trong thực tế cuộc sống, những người mang thai hộ với những tai biến, rủi ro trong thai sản, pháp luật của chúng ta chưa có sự điều chỉnh.

Hoặc việc mang thai hộ lúc đầu thì có tính chất nhân đạo nhưng về sau mang tính chất thương mại, có những trường hợp thách đố không bàn giao trẻ cho những người nhờ mang thai hộ. Bên nhờ mang thai hộ cũng có trường hợp vì không đạt được ý muốn do đứa con khi sinh ra không đáp ứng được, có thể thiếu tinh thần trách nhiệm nên không nhận lại đứa trẻ, cũng gây khó khăn cho người mang thai hộ… Do vậy, quy định điều kiện mang thai hộ phải rất chặt chẽ và phải nêu lên các điều kiện tiêu chuẩn cụ thể.

Cũng về chủ đề này, đại biểu Nguyễn Thị Phúc (Bình Thuận) bày tỏ chưa đồng tình với quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Theo đại biểu đây là một vấn đề nhạy cảm, phức tạp liên quan đến nhiều khía cạnh, đạo đức, xã hội và pháp lý, là vấn đề dễ bị lợi dụng và chưa phù hợp với văn hóa Việt Nam.

Theo đại biểu Phúc, ranh giới giữa mục đích nhân đạo và thương mại là rất khó xác định. Khái niệm mang thai hộ như dự thảo luật nêu là chưa rõ, chưa có sức thuyết phục cao. Trường hợp vì nhân đạo mà người phụ nữ mang thai hộ phải gánh chịu những hậu quả, rủi ro từ khi mang thai đến sau sinh hoặc phải đánh đổi cả sức khỏe và tính mạng của mình thì sao? Người mang thai hộ có được xem là mẹ đẻ của đứa bé do chính mình sinh ra hay không?

Đại biểu dẫn chứng: Theo giải thích từ ngữ về cha, mẹ đẻ, về con được thể hiện tại Mục 18, Điều 8, dự thảo luật thì ai là mẹ đẻ? Người mang thai hộ thực hiện quá trình thai nghén sinh con hay là người góp tế bào trứng? Nếu cho rằng người chỉ góp tế bào trứng là mẹ đẻ còn người mang nặng đẻ đau, bất chấp nguy hiểm, tính mạng chỉ là người mang thai hộ là hoàn toàn không thỏa đáng, là xem nhẹ công lao sinh đẻ của người phụ nữ... Ngoài ra còn nhiều xung đột, tranh chấp phát sinh do việc mang thai hộ, phần lớn đều do người phụ nữ phải gánh chịu.

Đại biểu cho rằng, đây là vấn đề phức tạp cần phải được tính toán kỹ, đồng thời cũng cần phải nhìn nhận và đánh giá cho đúng bản chất của việc mang thai hộ có thực sự mang lại kết quả hạnh phúc bền vững cho gia đình hay không? Đại biểu bày tỏ băn khoăn và đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu thêm.

Cũng về chủ đề này, đại biểu Nguyễn Ngọc Phương (Quảng Bình) đề nghị xem xét thật kỹ nếu việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mà quá trình thực hiện xuất hiện nhiều yếu tố mất nhân đạo thì không nên đưa vào. Đại biểu gợi ý, dự thảo nên khuyến khích những người không sinh được con thì nhận con nuôi, đấy là một vấn đề hết sức nhân đạo, tạo điều kiện cho nhiều trẻ khi sinh ra không có bố, có mẹ, không có gia đình, không có ai chăm sóc, có nơi nương tựa, chăm sóc.

Cùng suy nghĩ tương tự, đại biểu Lê Văn Hoàng (Đà Nẵng) đề nghị chưa nên quy định việc mang thai hộ vào luật và cần có thời gian để thu thập thêm ý kiến đóng góp từ nhiều nguồn của xã hội.



File đính kèm