Điểm tin báo chí sáng ngày 19 tháng 01 năm 2010

19/01/2010
Trong buổi sáng ngày 19/01/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam phản ánh: Cần có một văn bản chính thức giữa Văn phòng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao qui định cụ thể về sự phối hợp giữa các cơ quan này – đây là nhận định chung của các đại biểu tại Hội thảo Quy chế phối hợp công tác giữa Chính phủ với Toà án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao do Văn phòng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phối hợp tổ chức tại Hà Nội ngày 18/1. Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Trương Hòa Bình, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Trần Quốc Vượng chủ trì hội thảo.
Tại hội thảo, các đại biểu đánh giá: Thời gian qua, phối hợp công tác đã trở thành truyền thống mang tính bản chất và nguyên tắc trong hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước ta và được qui định trong Hiến pháp. Trong đó, phối hợp giữa Chính phủ với Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chính là sự phối hợp giữa cơ quan hành pháp và tư pháp nên có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm kỷ cương pháp luật, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Các đại biểu cũng nhận xét: trong hệ thống văn bản pháp luật có rất nhiều văn bản qui định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhưng lại chưa có cơ sở pháp lý vững chắc nào để điều chỉnh quan hệ phối hợp giữa Chính phủ với cơ quan hành pháp- tư pháp. Do vậy, việc ban hành Quy chế phối hợp công tác giữa Chính phủ với Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao là phù hợp khi tạo ra cơ chế để thực thi việc phối hợp của 3 cơ quan này, đồng thời giải quyết những vướng mắc hiện nay trong quá trình phối hợp.
Quy chế sẽ được hoàn thiện và dự kiến ban hành trong quí I/2010 để tăng cường sự phối hợp giữa Chính phủ với Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong việc thực hiện các nhiệm vụ có liên quan, nhằm góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
2. Báo Quân đội nhân dân phản ánh: Ngày 18-1, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XII đã khai mạc phiên họp thứ 27. Phiên họp diễn ra trong hai ngày (18 và 19-1) để cho ý kiến về một số dự án luật và xem xét, thông qua Nghị quyết điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010.Trong ngày làm việc đầu tiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét việc điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 và cho ý kiến về một số vấn đề lớn của dự án Luật Trọng tài thương mại, Luật Thi hành án hình sự.
Về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội nhất trí với đề nghị của Chính phủ bổ sung dự án Luật Đầu tư công để điều chỉnh các hoạt động liên quan đến việc đầu tư ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, tăng cường quản lí, chống thất thoát lãng phí. Ủy ban cũng tán thành việc cần sớm sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 66/2006/QH11 về công trình, dự án quan trọng quốc gia trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Cụ thể là quy định chi tiết và điều chỉnh tiêu chí về quy mô vốn đầu tư cần được trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư; đồng thời mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với việc đầu tư các công trình, dự án quan trọng quốc gia ra nước ngoài, góp phần minh bạch hóa các quy định trong lĩnh vực đầu tư, thúc đẩy cơ hội đầu tư ở Việt Nam. Tuy nhiên sẽ không ban hành thành hai nghị quyết riêng lẻ như đề nghị của Chính phủ mà chỉ ban hành một nghị quyết trong đó gồm hai phần, một phần về xem xét, quyết định chủ trương đầu tư trong nước và một phần về xem xét, quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài. Về thời gian trình các dự án, cần cân nhắc, sắp xếp hợp lí nhằm bảo đảm chất lượng chuẩn bị dự án và tính khả thi của Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010.
Đối với Dự thảo Luật Trọng tài thương mại, một số vấn đề lớn đang còn có những ý kiến khác nhau. Đó là: Phạm vi thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của trọng tài thương mại; tiêu chuẩn trọng tài viên; trọng tài có yếu tố nước ngoài; thẩm quyền của Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; đăng kí phán quyết trọng tài vụ việc...
3. Báo Hà Nội mới phản ánh: Thời gian gần đây, công tác cải cách hành chính (CCHC) nói chung đã có chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, tình trạng người dân phàn nàn về việc giải quyết hồ sơ chậm trễ vẫn còn khá phổ biến. Nguyên nhân một phần do công tác tuyên truyền, phổ biến, tự học tập để cập nhật thông tin liên quan còn yếu nên cán bộ công tác tại cơ quan chính quyền cơ sở không nắm rõ quy định.
Theo quy định, cán bộ tại bộ phận "một cửa" chỉ tiếp nhận hồ sơ hành chính (HSHC) của công dân khi đã đầy đủ hồ sơ. Thành phần hồ sơ của từng loại thủ tục đều phải được niêm yết công khai và hơn ai hết, cán bộ phải nắm rõ bộ hồ sơ thiếu giấy tờ gì để hướng dẫn người dân bổ sung. Song, ở nhiều UBND phường, cán bộ "một cửa" không nắm rõ quy định, hoặc cho rằng mình là khâu trung gian, chỉ có trách nhiệm nhận, còn thành phần hồ sơ là của bộ phận chuyên môn. Vì vậy, người dân vẫn nộp được hồ sơ rồi chờ đợi cả tháng, cả năm mà không được giải quyết.
Tại UBND phường Thanh Lương (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội), vào tháng 4-2009, có tới 400 hồ sơ xin cấp "sổ đỏ" tồn đọng, nhưng đến tháng 1-2010, mới chỉ có 17 hồ sơ được giải quyết. Theo Phó Chủ tịch UBND phường Thanh Lương, UBND phường đã trình lên quận tất cả 400 hồ sơ đó nhưng 383 hồ sơ lại thuộc diện "bất khả kháng" do nằm trong diện quy hoạch. Tương tự, tại phường Xuân La (quận Tây Hồ) cũng có 2 trường hợp người dân phải chờ đợi gần 1 năm mới biết rằng nhà mình ở trong diện quy hoạch và 1 trường hợp cũng sau gần 1 năm đương sự mới được thông báo là phải bổ sung hồ sơ... Đáng ra, việc quy hoạch phải được quận và phường công bố công khai để người dân biết. Đồng thời, chính cán bộ phường phải trả lời luôn cho công dân biết trường hợp đó đủ điều kiện hay không chứ không phải cứ nhận rồi chuyển lên quận, rồi quận lại trả về, gây mất thời gian và công sức. Chưa kể, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN QSDĐ) đã có quy định mới (Quyết định số 117/2009/QĐ-UBND có hiệu lực từ ngày 11-12-2009) nhưng nhiều đơn vị vẫn niêm yết các quyết định cũ: 23/2005/QĐ-UBND và 23/2008/QĐ-UBND thì làm sao hướng dẫn đúng cho người dân thực hiện.
Hiện nay, chính quyền các cấp đang đẩy mạnh thông tin về CCHC qua báo cáo định kỳ. Hàng tháng, hàng quý, hàng năm, các đơn vị đều phải gửi văn bản báo cáo việc thực hiện công tác CCHC lên cơ quan cấp trên. Đây cũng là một cách để lãnh đạo nắm được tình hình của đơn vị cấp dưới. Tuy nhiên, kiểu báo cáo này cũng bộc lộ không ít hạn chế; các đơn vị thường hay báo cáo thành tích, báo cáo chung chung hoặc hình thức. Hơn nữa, việc định kỳ gần nhau quá khiến cán bộ các đơn vị bị "quay như chong chóng" với báo cáo, trong khi công việc chuyên môn vốn đã bộn bề. Bên cạnh đó, việc thông tin về CCHC nói chung hiện nay chưa thực sự tác động đến hoạt động thực thi công việc của cán bộ, công chức nên vẫn còn tình trạng trì trệ, nhất là ở các phòng chuyên môn. Theo PGS.TS Nguyễn Kim Sơn (Học viện Hành chính), thông tin CCHC mang ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Do đó, không thể chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin "một chiều"; và cần cung cấp cả những thông tin về thực tiễn CCHC "không thành công", "không hiệu quả" thì mới có tác dụng trở thành bài học cho các đơn vị khác rút kinh nghiệm.
Như vậy, để công tác CCHC có hiệu quả, không gây phiền hà, mất thời gian của công dân thì trước tiên chính những cán bộ chính quyền cơ sở phải kịp cập nhật thông tin, công khai tất cả các vấn đề liên quan đến TTHC và hướng dẫn người dân thực hiện. Đồng thời, cơ quan cấp trên cần có biện pháp kiểm tra thực tế các đơn vị để nắm rõ tình hình chứ không chỉ dựa trên cơ sở báo cáo của các đơn vị thì mới thúc đẩy được việc CCHC hiệu quả.
4. Báo Lao động phản ánh: Vừa bước qua năm mới 2010 hơn mười ngày, thị trường gần như đã xác lập một mặt bằng giá mới ở nhiều mặt hàng. Nguyên nhân và cũng là lý do các nhà cung cấp hàng hoá tăng giá vì cho rằng mức thuế VAT đối với nhiều mặt hàng tăng trở lại 10% thay vì ở mức ưu đãi chỉ 5% như trong năm 2009, từ đó sữa tăng giá, rồi ôtô, máy tính, hàng kim khí điện máy.v.v…rào rào tăng giá theo. Dù Bộ Tài chính đã có thông tư về quản lý giá khi có biến động nhưng không phải là “cây gậy thần” khắc chế được tình trạng giá cả bắt đầu leo thang hiện nay. Không vì quy định đó mà các DN chấp nhận lãi ít đi chứ chưa nói là chịu lỗ. Giá sữa là một minh chứng. Mức thuế VAT tăng thêm 5% nhưng nhiều hãng sữa vừa tăng giá sản phẩm đến 6% - 7%. Sự lợi dụng, hoặc vin vào điều gì đó, đặc biệt là sự thay đổi chính sách, từ lâu đã trở thành một thứ lý do đẹp cho không ít DN tăng giá sản phẩm quá mức. Các DN thừa tinh vi để lách các quy định mưu lợi riêng.
Việc quản lý giá không bao giờ dễ dàng. Ở nước ta giá cả biến động càng phức tạp hơn vì các tin đồn, những kẻ đầu cơ thổi bùng các cơn sốt ảo, tâm lý bầy đàn dễ hoang mang, sự điều hành của các cơ quan còn thiếu nhạy bén và kịp thời… Song đối với người dân, điều quan trọng nhất là vấn đề biến động giá cả được giải quyết như thế nào, có ổn thoả hay không? Và cũng chính người dân cảm nhận một cách trực tiếp và rõ ràng nhất đồng lương và thu nhập của họ bị teo tóp giá trị đến mức nào trước làn sóng tăng giá. Nhà nước có thẩm quyền sử dụng đến các biện pháp hành chính và kinh tế, nhưng cũng sẽ phải đối mặt với những tác dụng phụ. Người tiêu dùng cũng có quyền, thậm chí rất lớn, đó là quyền tiêu dùng. Quyền tiêu dùng của người dân là “cây gậy” hoàn toàn đủ sức chế ngự làn sóng tăng giá.
Tiêu dùng là nhu cầu. Nhưng tiêu dùng một cách hợp lý, không chạy theo tâm lý đám đông, cắt bớt nhu cầu xa xỉ trong bối cảnh giá cả biến động dữ dội v.v… là một thái độ trách nhiệm không chỉ có lợi cho chính mình mà còn góp sức với chính quyền bình ổn giá thị trường, duy trì sự bình ổn lâu dài tạo ra lợi ích bền vững. Làn sóng tăng giá hiện nay diễn ra khi mùa vụ thị trường tết vẫn chưa thực sự bắt đầu đang trực tiếp uy hiếp mạnh chỉ số CPI năm 2010 với mức phấn đấu dưới hai con số. Trong hai năm qua, giá cả trong nước đã xảy ra nhiều đợt biến động khôn lường, nỗi lo lạm phát cao trong năm 2010 cũng đang lớn dần. Bình ổn giá đã trở thành vấn đề xã hội không chỉ còn là trách nhiệm của Nhà nước, mà đòi hỏi sự chung sức của các tổ chức, DN và từng cá nhân. Sự tiêu dùng hợp lý và có trách nhiệm sẽ luôn ích nước lợi nhà.
5. Báo Thanh niên phản ánh: Hôm qua 18.1, Viện KSND TP Hà Nội đề nghị áp dụng hình phạt tù giam đối với 13 bị cáo trong vụ tiêu cực xảy ra tại Ban điều hành Đề án 112; 10 bị cáo khác bị đề nghị án treo. Nguyên Trưởng ban điều hành Đề án 112 Vũ Đình Thuần bị đề nghị mức án 7-8 năm tù, áp theo khoản 3 điều 281 - BLHS. Theo đại diện cơ quan công tố, bị cáo Thuần có vai trò chính trong vụ án và là đầu mối câu kết với các cán bộ cấp dưới để phạm tội, bị cáo đã gây thiệt hại 4,6 tỉ đồng, hưởng lợi 275 triệu đồng, do đó cần áp dụng hình phạt giam cao hơn các đồng phạm và cách ly khỏi xã hội thời gian dài.
Cấp dưới của Thuần là Lương Cao Sơn, Ủy viên thư ký Ban điều hành Đề án 112 bị đề nghị mức án tương tự với bị cáo Thuần, vì có vai trò tích cực khởi xướng, lôi kéo nhiều người cùng phạm tội, hưởng lợi lớn (700 triệu đồng). Tiếp đó, bị cáo Nguyễn Cát Hồ, nguyên Tổ trưởng Tổ đào tạo, Ban điều hành Đề án 112, bị đề nghị từ 5-6 năm tù giam do làm trái nhiệm vụ được giao, lợi dụng chức vụ quyền hạn làm thất thoát tiền Nhà nước. Bị cáo Hoàng Đăng Bảo, nguyên chuyên viên vụ cải cách hành chính, từ 2-3 năm tù.
Bị cáo Nguyễn Thúy Hà (nguyên Giám đốc Công ty ISA) bị xác định hứa hẹn trích lại tiền cho Ban điều hành Đề án 112 để ký hợp đồng trái với quy định, gây thiệt hại nhà nước 1 tỉ đồng, doanh nghiệp hưởng lợi 3,3 tỉ đồng; đồng thời xét bị cáo Hà thiếu thành khẩn tại tòa nên Viện KSND đề nghị mức án từ 5-6 năm tù giam.
Bị cáo Nguyễn Đức Giao, nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Tư pháp, bị đề nghị án từ 36 đến 42 tháng tù. Hai em trai và em vợ của Lương Cao Sơn là Lương Cao Phi, Lương Cao Phong và Nguyễn Thị Nhâm bị đề nghị mức án từ 36-42 tháng tù giam...
Có 10 bị cáo bị Viện KSND đề nghị án tù treo, trong đó Công Tuấn Hải, nguyên cán bộ Nhà xuất bản Bản đồ, bị đề nghị mức án thấp nhất trong số 23 bị cáo, từ 15-18 tháng tù treo. Theo Viện KSND, hầu hết các bị cáo là cán bộ nhà nước, giữ chức vụ cao, biết Đề án 112 có ý nghĩa rất lớn đối với nhà nước nhưng lại thể hiện sự coi thường lợi ích đất nước, thu vén lợi ích cá nhân. Ngoài ra, tại tòa, các bị cáo có thái độ thiếu thành khẩn, đổ tội cho nhau nên cần xử lý nghiêm khắc.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Một công văn khó hiểu. Bài báo phản ánh: Đã từng ra quyết định bác đơn khiếu nại của ông Phạm Mạnh Hà (SN 1958, ngụ Q10) nhưng đến ngày Chi cục Thi hành án dân sự quận 3  tổ chức cưỡng chế thi hành án (buộc ông Hà phải chia lại cho bà Nguyễn Thị Kim Thủy, SN 1965, ngụ Q3, 1/2 mảnh đất có diện tích 450m2 tại H. Bình Chánh) thì Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp lại có công văn hướng dẫn THADS TPHCM kiểm tra, kịp thời giải quyết những khiếu nại của ông Hà trước khi tổ chức cưỡng chế THA, báo cáo kết quả, đồng thời có nhiều ý kiến chỉ đạo khiến Chi cục Thi hành án dân sự quận 3 và dư luận hết sức bất bình. Mới đây, ông Nguyễn Thanh Thủy - Phó tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp kýá văn bản 351/BTP - THA ngày 9-3-2009 gởi Tòa án nhân dân tối cao khiếu nại thông báo bổ sung và bản án của TAND TPHCM, làm thay phần việc đáng lẽ ra là của ông  Hà - đương sự của vụ án?
Theo báo cáo định kỳ về các vụ thi hành án tồn đọng kéo dài của Chi cục Thi hành án dân sự quận 3 thì sau khi được TAND TPHCM giải quyết ly hôn bằng bản án số 89/LH-PT ngày 23-8-1996, cả ông Phạm Mạnh Hà và bà Nguyễn Thị Kim Thủy đã cùng thống nhất bán căn nhà số 140 Võ Văn Tần, P6Q3 với giá 445 lượng vàng SJC để tự phân chia tài sản ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Tại hợp đồng mua bán nhà đất được ký kết vào ngày 8-12-1996, ông Hà và bà Thủy đều thống nhất ký tên, nhận tiền. Thế nhưng, vào năm 2006, khi bà Thủy làm đơn yêu cầu khôi phục thời hiệu bản án, đòi chồng cũ phải thực hiện việc chia 1/2 mảnh đất tại Bình Chánh thì ông Hà đã liên tục khiếu nại lên Tổng cục Thi hành án dân sự, đòi bà Thủy phải chia cho mình 150 lượng vàng  như bản án của tòa đã tuyên với lý do: “...mặc dù tôi có ký giấy bán căn nhà 140 Võ Văn Tần nhưng số tiền bán nhà và tài sản chung ghi trong bản án chưa chia cho tôi...”.
Trong khi đó, theo bà Thủy thì từ lúc nhận 1/2 số  tiền bán nhà, ông Hà đã phớt lờ trách nhiệm của mình trong việc chia lại cho bà 1/2 mảnh đất có diện tích (10x45 mét) tại ấp 3, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh. Đối với phần tài sản này, vào tháng 8-2001 Chi cục THADS Q3 đã có văn bản ủy thác cho THADS huyện Bình Chánh thực hiện việc thi hành án đối với ông Phạm Mạnh Hà. Song ở thời điểm trên, ông Hà có đơn khiếu nại quyết định thi hành án số 479/THA ngày 12-9-2001 của Chi cục THADS huyện Bình Chánh với lý do đơn vị này đã ra quyết định thi hành án khi bản án trên đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án nên Chi cục THADS huyện Bình Chánh đã phải ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án trên,  đưa bà Thủy vào thế không thể đòi người chồng cũ thực hiện chia phần đất mà bà đã được phân chia trong bản án.
Vào tháng 2-2007, Chi cục THADS Q3 căn cứ trên đơn xin khôi phục thời hiệu thi hành án của bà Thủy và công văn số 250/2007/VP-TA ngày 19-1-2007 của TAND TPHCM xác nhận đã cấp sao lục bản án lần đầu cho bà Thủy vào ngày 14-5-2001 để ra quyết định khôi phục thời hiệu và quyết định thi hành án đối với ông Phạm Mạnh Hà, trong đó buộc ông Hà phải thi hành việc chia cho bà Thủy một diện tích đất là 5x45 mét. Song, không những ông Hà không thi hành quyết định thi hành án của Chi cục THADS Q3 mà còn gởi đơn thư tới nhiều cơ quan chức năng tại TPHCM và trung ương để khiếu nại việc Chi cục THADS Q3 ra quyết định khôi phục thời hiệu trên là trái với quy định của pháp luật. Đồng thời nêu lên việc ông chưa được chia 1/2 số vàng bán căn nhà 140 Võ Văn Tần P6Q3 để yêu cầu Chi cục THADS Q3 phải ra quyết định khôi phục thời hiệu, buộc bà Thủy phải giao 150 lượng vàng...
Mặt khác, ông Hà giấu nhẹm thông tin liên quan đến mảnh đất trên và cho rằng tòa án đã thiếu căn cứ khi tuyên buộc ông phải chia mảnh đất vì nó không rõ tứ cận, không xác định rõ ở vị trí nào... Ngay cả khi TAND TPHCM có thông báo bổ sung bản án số 1250/2008/TB-TA nêu rõ mảnh đất thuộc số 967 đường Chánh Hưng, ấp 3 (nay thuộc ấp 4) xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh thì ông Hà cũng không chịu thừa nhận. Trong đơn khiếu nại ông đã viết: “Khi tòa xét xử năm 1996 thì trên thực tế chưa có đường Chánh Hưng, do vậy thông báo đính chính của tòa là không đúng thực tế...”. Tuy nhiên, TAND TPHCM và THADS Q3 cũng đã có đủ cơ sở để xác minh được mảnh đất trên nay thuộc số 967 đường Chánh Hưng. Trong số những tài liệu chứng minh, đáng chú ý là tờ đơn cớ mất giấy tờ do chính ông Hà viết vào ngày 5-8-1995 có xác nhận của CAP6Q3 đã có đoạn viết: “ ...1 bộ giấy tờ mua bán đất số 967 đường Chánh Hưng, ấp 3 xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh”. Trước  đó, trong văn tự mua bán nhà ký với chủ đất cũ vào năm 1992 cũng thể hiện: “...bằng lòng bán đứt căn nhà số 967 đường Chánh Hưng...”.
Điều đặc biệt mà ông Hà vin vào để không chịu thi hành án là cho rằng ông đã bán mảnh đất trên cho ông Nguyễn Thành Bon vào năm 1995 - thời điểm trước khi vợ chồng ông ly hôn. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, ông Hà vẫn là chủ nhân thực sự của mảnh đất trên. Tháng 6-2000 chính tay ông Hà đã ký giấy nhận 190.208.000 đồng từ Ban QLDA đầu tư XDCT GTCC chi trả cho việc đền bù một phần diện tích của căn nhà số 967 Chánh Hưng trong việc giải phóng mặt bằng để xây dựng cầu và đường Nguyễn Tri Phương nối dài. Với những chứng cứ trên, ngày 28-10-2008, tại cuộc họp Ban chỉ đạo thi hành án, Chủ tịch UBND Q3, Trưởng ban chỉ đạo Thi hành án Q3 - ông Trịnh Văn Thình - đã kết luận: “Xây dựng kế hoạch cưỡng chế đối với ông Phạm Mạnh Hà để thi hành khoản giao trả đất cho bà Nguyễn Thị Kim Thủy như án đã tuyên...”.
Song, khi Chi cục THADS Q3 lên kế hoạch, tổ chức thực hiện việc cưỡng chế đối với ông Hà thì bỗng nhiên ngày 26-12-2008 THADS TPHCM nhận được công văn số 1803/BTP-THA, hướng dẫn THADS TPHCM kiểm tra, kịp thời giải quyết những khiếu nại của ông Hà trước khi tổ chức cưỡng chế THA, báo cáo kết quả (mặc dù trước đó cũng chính Cục THADS đã có quyết định số 516/QĐGQKN-THA với nội dung bác đơn khiếu nại của ông Hà). Việc ra văn bản “tiền hậu bất nhất” như trên đã khiến việc cưỡng chế THA đối với ông Hà bị đình lại cho tới nay, gây bức xúc trong dư luận. Gần đây trong một cuộc họp hồi tháng 3-2009 giữa lãnh đạo Tổng cục THADS, Cục THADS TPHCM và Chi cục THADS các quận huyện... Tổng cục THADS lại có yêu cầu “trái khoáy” khi chỉ đạo: “...THADS Q3 cần có văn bản đề nghị Tòa án nhân dân tối cao xem xét việc TAND TPHCM có văn bản số 1250/2008/TB-TA ngày 18-11-2008 thông báo bổ sung bản án có hiệu lực từ năm 1996 là có phù hợp hay không...” (!?).
Đáng ngạc nhiên hơn nữa, vào ngày 9-3-2009, ông Nguyễn Thanh Thủy - Phó tổng cục trưởng Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp lại có văn bản gởi TAND tối cao để... “khiếu nại về thông báo bổ sung và bản án của TAND TPHCM”. Dư luận đang thắc mắc việc ban hành một công văn như trên có đúng luật hay không? Bởi lẽ, theo Điều 16, Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004 thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chỉ có quyền yêu cầu tòa án đã ra bản án, quyết định giải thích bằng văn bản những điểm chưa rõ trong bản án, quyết định đó để thi hành; kiến nghị người có thẩm quyền xem xét việc kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực nếu có căn cứ cho thấy có vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án hoặc phát hiện có tình tiết mới. Như vậy, lý do nào đã khiến ông Thủy gởi một văn bản cho TAND tối cao để khiếu nại một bản án do TAND TPHCM ban hành?
Trước những yêu cầu không có cơ sở của cấp trên, Chi cục THADS Q3 đã có văn bản số 161/THA ngày 11-3-2009 gởi Cục THADS TPHCM, Viện KSND Q3 trả lời thẳng thắn rằng: “...bản án ly hôn trên là do TAND TPHCM tuyên xử và cũng chính tòa án cấp này đã giải thích bằng văn bản số 1033/TATP-TLĐ... nên việc Cục THADS yêu cầu THADS Q3 có văn bản yêu cầu TAND tối cao giải thích là điều không thể”.
Được biết, để giải quyết dứt điểm vụ việc, Chi cục THADS Q3 vừa qua đã liên tiếp gởi hai công văn xin ý kiến chỉ đạo việc thi hành án của Tổng cục THADS với nội dung: “Chi cục THADS Q3 tiếp tục thực hiện quyết định cưỡng chế giao quyền sử dụng đất buộc ông Hà giao cho bà Thủy quyền sử dụng đất được hay chưa?”. Có thể nói, đây là một trong những số ít công văn thể hiện sự kiên quyết bảo vệ quyền lợi chính đáng của người được thi hành án trước sự im lặng khó hiểu của Tổng cục THADS, nhưng đến nay cơ quan này vẫn chưa nhận được ý kiến chỉ đạo từ cấp trên. Thiết nghĩ, trong việc này lãnh đạo Bộ Tư pháp cũng nên có ý kiến chỉ đạo nhằm sớm giải quyết dứt điểm vụ việc.
2. Báo Giađinh.net có bài Vẽ chân cho… rắn. Bài báo phản ánh: Theo Điều 19, Dự thảo lần 3 Luật Thủ đô, ngoài các điều kiện của pháp luật về cư trú, TP Hà Nội sẽ có thêm quy định buộc công dân muốn đăng ký thường trú tại Thủ đô phải đáp ứng yêu cầu tạm trú liên tục tại Thủ đô từ 5 năm trở lên; Phải chứng minh có việc làm hợp pháp với mức lương ít nhất bằng 2 lần mức lương tối thiểu. Ngoài ra, dự thảo Luật còn quy định người thường trú hoặc tạm trú muốn làm việc tại Hà Nội phải có giấy phép lao động do Sở Lao động, Thương binh và Xã hội Hà Nội cấp.
Người đứng đầu thành phố cho rằng, tình trạng nhếch nhác về văn hoá tại Thủ đô một phần là do quy định nhập cư chưa chặt chẽ. Người tỉnh ngoài về Hà Nội làm ăn, sinh sống, đang được cho là nguyên nhân gây sức ép rất lớn cho chính quyền Thủ đô trong việc giải quyết các bài toán về hạ tầng, nhà ở, môi trường... Những lo lắng của lãnh đạo thành phố, của ban soạn thảo luật là hoàn toàn có lý do. Nhưng hiệu quả tác dụng của quy định mang tính hành chính này lên sự gia tăng dân số cơ học vào Thủ đô như thế nào, thì có lẽ vẫn còn là vấn đề phải bàn cãi.
Lý giải tình trạng giá bất động sản Hà Nội tiếp tục leo thang trong năm 2009, trong khi TP HCM chững lại, thậm chí sụt giảm, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam cho rằng, sự khác biệt có thể nằm ở sức ép gia tăng dân số cơ học. Với nhiều người dân miền Tây, thành phố của họ là Cần Thơ, "ra thành phố" là ra TP Cần Thơ chứ không phải TP HCM. Thực tế, sự phát triển mạnh của các trung tâm như Cần Thơ, Vũng Tàu đã góp phần làm giảm sức ép gia tăng dân số cơ học lên TP HCM. Trong khi ở miền Bắc, hiện nay người ta vẫn coi Hà Nội là thành phố, là trung tâm duy nhất. Tất cả đều đổ dồn về đây, chưa kể Hà Nội lại là nơi đặt các cơ quan hành chính đầu não của Trung ương, nên sức ép tăng dân số cơ học càng lớn. Điều này lý giải tại sao, cầu nhà ở tại Thủ đô luôn lớn hơn nhiều cung và gây nên tình trạng sốt giá.
Nhận xét của ông Nam có thể khiến các nhà soạn thảo Luật Thủ đô phải suy nghĩ. Quy định 5 năm tạm trú chưa chắc hạn chế được tình trạng nhập cư vào Hà Nội, khi gốc rễ vấn đề lại nằm ở sự chênh lệch phát triển vùng miền. Chưa kể quy định chỉ cho tạm trú có thể sẽ lại làm khó cho chính quyền trong công tác quản lý hành chính và là nguồn phát sinh tiêu cực. 


File đính kèm