Điểm tin báo chí sáng ngày 20 tháng 6 năm 2013

20/06/2013
Trong ngày 19/6 và đầu giờ sáng ngày 20/6/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin nổi bật và thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
             I- THÔNG TIN NỔI BẬT  

Trang vtv.vn đưa tin: Sáng 19/6, các đại biểu Quốc hội làm việc ở hội trường đã thảo luận về dự thảo Luật Việc làm. Tại buổi thảo luận về dự thảo Luật Việc làm, các đại biểu đều cho rằng việc ban hành Luật Việc làm là cần thiết nhằm góp phần phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường lao động, đồng thời để thể chế hóa quan điểm của Đảng đó là “Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn”.

Nhiều đại biểu Quốc hội đã tán thành với đề xuất của Chính phủ khi chuyển các qui định về Bảo hiểm thất nghiệp từ Luật Bảo hiểm xã hội sang qui định trong dự án Luật Việc làm và cho rằng điều này sẽ không làm thay đổi mô hình tổ chức, không gây xáo trộn về hoạt động quản lý quỹ, cũng như triển khai thực hiện chính sách về Bảo hiểm thất nghiệp.

Một số đại biểu cũng đã bày tỏ sự đồng thuận cao với dự thảo khi mở rộng đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, các đại biểu đề nghị cần phải có qui định cụ thể hơn để khuyến khích tạo nguồn, nhằm đảm bảo cân đối thu chi của quĩ Bảo hiểm thất nghiệp. 

Có một chính sách mới được quy định đó là chính sách về việc làm công, theo giải trình của Bộ LĐ-TB&XH đây là chính sách đã được triển khai song chưa được quy định trong luật và đây là lần đầu tiên được luật hóa. Đại biểu Nguyễn Thúy Hoàn cho rằng, đây là một chính sách rất nhân văn hướng tới các lao động không có quan hệ lao động và đang tìm việc làm, tuy nhiên đại biểu cũng đề nghị phải làm rõ hơn để biết người lao động được hưởng ưu đãi gì trong chính sách này. 

Ngoài ra, tại hội trường các đại biểu cũng đề nghị làm rõ các nguồn lực tài chính để thực hiện các chính sách được quy định trong dự thảo Luật, cũng như việc lồng ghép giới trong một số chính sách cụ thể. Bổ sung quy định thông tin thống kê về thị trường lao động phải được tách biệt theo giới tính.

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Khốn khổ vì thông tư 14 - Bài cuối: Khi nào tháo gỡ? Bài báo phản ánh: Trước bức xúc của những người đã mua nhà, đất hợp pháp nhưng lại bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của chủ cũ, chúng tôi đã trao đổi với ông Nguyễn Thanh Thủy, Phó Tổng cục trưởng Tổng Cục Thi hành án dân sự, cùng nhiều chuyên gia khác.

Ông Nguyễn Thanh Thủy thừa nhận những người mua nhà, đất của người đang bị kiện tụng, đang phải thi hành án (THA) có thể gặp rủi ro là nhà, đất có khả năng bị cơ quan THA kê biên. Ông lý giải rằng một khi đã có bản án, quyết định sơ thẩm của tòa buộc trả nợ mà lại đi bán tài sản là hành vi cố tình tẩu tán tài sản nhằm chối bỏ trách nghiệm trả nợ, cần phải bị ngăn chặn, kê biên, xử lý tài sản để THA.

Đi vào cụ thể, ông Thủy cho rằng các cơ quan THA chỉ kê biên tài sản khi xác định tài sản đó vẫn thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của chủ cũ. “Tôi tin THA rất thận trọng, không máy móc kê biên để THA cho xong việc mình mà để khó, để khổ cho dân. Vấn đề khó nhất là phải xác định được ai là chủ sở hữu, chủ sử dụng hợp pháp của nhà, đất để kê biên đúng tài sản của người phải THA” - ông Thủy nói.

Ông Thủy cũng cho rằng gặp trường hợp này, người mua nhà, đất ngay tình có quyền kiện chủ cũ ra tòa để tranh chấp về quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất. Lúc đó cơ quan THA sẽ tham gia tố tụng với tư cách là bên có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu tòa phán quyết người mua đã là chủ sở hữu, chủ sử dụng hợp pháp thì tất nhiên cơ quan THA phải chấp hành, không được phép kê biên, bán đấu giá nhà để thanh toán nợ nần của chủ cũ. Còn nếu tòa phán quyết tại thời điểm đó chủ cũ vẫn có quyền sở hữu, sử dụng nhà, đất (tức giao dịch chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng chưa hoàn thành) thì cơ quan THA sẽ tiếp tục kê biên nhà, đất và bán đấu giá để THA.

Trao đổi, nhiều chuyên gia đồng ý với quan điểm của ông Thủy là phải có biện pháp ngăn chặn hành vi cố tình tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên, biện pháp ngăn chặn này phải đúng luật và không được xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người thứ ba ngay tình.

“Tôi rất đồng tình với nhiều ý kiến đã phát biểu trên Pháp Luật TP.HCM mấy ngày qua là quy định kê biên, xử lý tài sản để THA trong Thông tư 14 xâm phạm nguyên tắc bảo hộ quyền tài sản hợp pháp của người dân, trái nhiều quy định về xác lập quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà trong BLDS, Luật Đất đai, Luật Nhà ở. Mặt khác, chúng ta không thể nhân danh việc bảo vệ người được THA để gạt bỏ quyền lợi hợp pháp của người mua nhà, đất ngay tình được” - luật sư Cao Minh Triết (Đoàn Luật sư tỉnh Tiền Giang) khẳng định.

Bên cạnh đó, một chấp hành viên ở TP.HCM cho biết Thông tư 14 không quy định cơ quan THA dân sự chỉ kê biên tài sản khi xác định tài sản đó vẫn thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của chủ cũ như ông Nguyễn Thanh Thủy nói. Vì vậy trên thực tế, mọi trường hợp mua nhà sau khi vụ kiện của người bán đã có bản án, quyết định sơ thẩm đều có thể bị cơ quan THA kê biên.

TS Nguyễn Văn Tiến (giảng viên khoa Luật Dân sự Trường ĐH Luật TP.HCM) phân tích: Nếu căn cứ vào Thông tư 14 thì chấp hành viên không có nghĩa vụ phải xác định xem tại thời điểm kê biên, tài sản có còn thuộc sở hữu của người phải THA hay không. Thông tư không hề hướng dẫn cho chấp hành viên là thời điểm nào thì quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất vẫn còn thuộc về người bán. Thực tế, các chấp hành viên cũng không “dại dột” làm chuyện này bởi họ phải tìm hiểu, viện dẫn các điều khoản trong BLDS, Luật Đất đai, Luật Nhà ở cùng các nghị định liên quan. Khi đó, hầu hết trường hợp chắc chắn sẽ không kê biên được bởi chỉ cần hồ sơ chuyển nhượng được đăng ký tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất là xem như người mua đã xác lập xong quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất.

Về hướng dẫn người mua khởi kiện chủ cũ để xác định ai có quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất hợp pháp, một thẩm phán TAND TP.HCM cho biết thực tế không đơn giản như vậy. Thứ nhất, nhiều người mua không muốn kiện tụng khi họ đang quản lý nhà, đất bởi kiện thì dù có thắng cũng không biết đến khi nào mới lấy lại được tiền khi bản thân người bán đang nợ nần, đang bị cơ quan THA “xiết”. Do đó, người mua thường chọn con đường khiếu nại. Thứ hai, dù họ có kiện thì tòa cũng phải xác định xem hai bên có tranh chấp gì không. Ở đây giữa người mua với người bán không có tranh chấp gì vì việc mua bán đã xong, thực chất chỉ có tranh chấp giữa người mua với cơ quan THA nên nhiều tòa sẽ không thụ lý.

Liên quan đến hiệu lực của hợp đồng mua bán, chuyển nhượng nhà, đất có công chứng, ông Nguyễn Trí Hòa (Trưởng phòng Công chứng số 4, TP.HCM) khẳng định hợp đồng công chứng hợp pháp chỉ bị vô hiệu bởi tòa chứ không phải bất cứ cơ quan nào khác như cơ quan THA.

Theo ông Hòa, ngoài quy định tại khoản 2 Điều 6 Luật Công chứng thì Điều 8 Phần 2 Các nguyên tắc cơ bản của hệ công chứng Latin (Công ước về công chứng mà Việt Nam tham gia) cũng ghi nhận: “Các văn bản công chứng có hiệu lực mang tính hợp pháp và chính xác, chỉ có thể khiếu nại bằng tòa án. Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ hiển nhiên và giá trị thi hành”. Như vậy, một hợp đồng mua bán, chuyển nhượng nhà, đất đã được công chứng một cách hợp pháp thì phải được thi hành.

 “Thú thật những người trực tiếp làm công tác THA mỗi khi phải áp dụng Thông tư 14 để kê biên nhà của người thứ ba cũng băn khoăn vì biết họ bị thiệt thòi. Tuy nhiên, ở hướng ngược lại, nếu chấp hành viên không kê biên thì lại vi phạm quy định và không hoàn thành nhiệm vụ ” - ông Võ Thành Danh, Chi cục trưởng Chi cục THA dân sự quận 8 (TP.HCM), tâm sự.

Theo ông Danh, việc áp dụng Thông tư 14 hiện đang gây thiệt thòi lớn cho những người mua nhà, đất ngay tình bởi họ không có một thông tin gì về việc kiện tụng của chủ cũ nếu chủ cũ cố tình giấu. Thực tế nếu người mua muốn tự tìm hiểu, kiểm tra thông tin thì cũng rất khó vì làm sao biết chủ cũ đang bị ai kiện, kiện ở tòa nào. Chưa kể, có tìm tới được tòa thì tòa cũng không cung cấp thông tin do người mua không phải là người liên quan đến vụ án. Trong khi đó, BLDS không cấm người phải THA bán tài sản nếu trước đó tài sản không bị kê biên, ngăn chặn, tức việc mua bán giữa người phải THA và người thứ ba là hợp pháp, không bị bất cứ điều gì cấm cảm cả…

2. Trang Giadinh.net.vn có bài Xét xử nguyên chấp hành viên lạm quyền. Bài báo đưa tin: Theo dự kiến, ngày 20/6, TAND tỉnh Hải Dương sẽ mở phiên toà sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Văn Hùng (SN 1976, nguyên Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ninh Giang) về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” và “Tham ô tài sản”. Theo đó, bị cáo Hùng đã có hành vi nhận 405 triệu đồng của người bị thi hành án.

Báo GĐ&XH đã có loạt bài phản ánh về những sai phạm liên quan đến ông Hùng trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình. Theo đó, mặc dù biết ông Bùi Văn Lân (63 tuổi, trú quán xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang) chỉ là nạn nhân trong một vụ án lừa đảo nhưng lợi dụng nhiệm vụ được giao, Hùng đã ra quyết định kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn với đất của ông Lân để bán đấu giá. Trước khi tổ chức bán đấu giá, Hùng đã gặp ông Lân và gợi ý nếu muốn mua lại tài sản đã kê biên thì Hùng sẽ giúp đỡ. Tin tưởng, ông Lân đã đưa 405 triệu đồng cho Hùng. Tuy nhiên, khi bán đấu giá thì một người dân địa phương đã mua thành công toàn bộ tài sản nhà ông Lân.

Nhận được phản ánh, Cục Thi hành án tỉnh Hải Dương cũng vào cuộc và có công văn số 1199/BC-CTHA gửi Tòa soạn Báo GĐ&XH khẳng định những nội dung đăng tải liên quan đến sai phạm của ông Hùng là chính xác. Theo đó, ông Lân có 7 lần đưa tiền cho ông Hùng (trong đó có một lần chuyển 15 triệu đồng vào tài khoản cá nhân ông Hùng, còn lại đưa tại gia đình của chấp hành viên này).

Sau một thời gian xác minh, ngày 10/12/2012, Cơ quan điều tra (VKSND tối cao) đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam Nguyễn Văn Hùng để điều tra về 2 hành vi “Tham ô tài sản” và “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. Xác minh cho thấy, lợi dụng nhiệm vụ được giao, ông Hùng đã 7 lần nhận tiền của ông Lân với tổng số tiền 405 triệu đồng và hứa hẹn sẽ giúp đỡ mua lại tài sản bị kê biên. Tuy nhiên, kết quả là ông Trịnh Xuân Tiềm (trú tại xã Hồng Thái, huyện Ninh Giang) là người trúng đấu giá, không phải là ông Lân.  

3. Báo điện tử Người đưa tin có bài Thuật ngữ ‘bỏ lọt tội phạm’ dưới góc nhìn luật gia. Bài báo phản ánh: Thời gian gần đây thuật ngữ “bỏ lọt tội phạm” được nhiều người nhắc đến. Tuy nhiên “bỏ lọt tội phạm” không phải là một thuật ngữ pháp lý được ghi nhận trong Bộ luật hình sự.

 “Bỏ lọt tội phạm” là cách nói để chỉ việc người có hành vi phạm tội nhưng lại không bị một chế tài nào trừng phạt và vẫn “nhởn nhơ” ngoài vòng pháp luật. Bỏ lọt có nghĩa là để một người “đi qua” những quy định pháp lý một cách an toàn. “Bỏ lọt tội phạm” có thể là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Bỏ lọt tội phạm do hành vi chủ quan của người có thẩm quyền, điều tra, truy tố, xét xử. Những người này mặc dù biết rõ có hành vi phạm tội xảy ra nhưng lại không tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc biết rõ là có tội nhưng lại tuyên án vô tội. “Bỏ lọt tội phạm” cũng có thể là do nguyên nhân từ việc không đủ chứng cứ, tài liệu để chứng minh một người có tội. Hoặc truy tố nhầm, truy tố xét xử không đúng người. Người có hành vi phạm tội thực sự lại không bị truy tố, xét xử. “Bỏ lọt tội phạm” còn có thể là hành vi phạm tội đó không ai biết, không ai thấy hoặc chưa ai biết, chưa ai thấy. Người có hành vi phạm tội bằng một cách nào đó xóa hết dấu vết phạm tội.

Từ những khái quát trên có thể thấy việc “bỏ lọt tội phạm” có thể do lỗi cố ý, có thể do lỗi vô ý. Những trường hợp “bỏ lọt tội phạm” do không ai biết, chưa biết hoặc bằng tất cả điều kiện có thể nhưng không đủ “điều kiện” để kết án một người có tội thì không thuộc trường hợp cố ý “bỏ lọt tội phạm”.

Nhìn chung việc “bỏ lọt tội phạm” ở một góc độ khía cạnh nào đó sẽ có một cách gọi khác nhau. Nhưng phải khẳng định “bỏ lọt tội phạm” không đồng nhất với “không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội” hoặc “án oan”. Bỏ lọt tội phạm xét về phạm vi, tính chất thì rộng hơn và bao trùm nhiều trường hợp khác nhau.

Trường hợp của nguyên trưởng công an thành phố Cao Lãnh (Đồng Tháp) vừa bị khởi tố về hành vi “không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội” cũng là một dạng của bỏ lọt tội phạm. Nhưng dạng “bỏ lọt này” là dang “bỏ lọt tội phạm” do lỗi cố ý.

Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định rõ: “Người nào có thẩm quyền mà không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Ở đây cần chú ý đến hai yếu tố. Yếu tố thứ nhất là người phạm tội này phải là người có thẩm quyền, yếu tố thứ hai là người đó phải “biết rõ” hành vi phạm tội của một người nhưng không truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụm từ “biết rõ” ở đây cho thấy, hành vi này là hành vi cố ý.

Liên quan đến “kỳ án vườn mít” Lê Bá Mai, nhiều người cũng đặt dấu hỏi: có hay không việc “bỏ lọt tội phạm”. Bởi lẽ nếu bị cáo Lê Bá Mai vô tội thì ai sẽ là người gây án. Nếu Lê Bá Mai vô tội thì hóa ra bao nhiêu năm qua kẻ phạm tội vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Trường hợp Lê Bá Mai là người có tội và tòa kết án đúng người đúng tội thì chính cơ quan tiến hành tố tụng đã làm một việc rất quan trọng đó là không để bỏ lọt tội phạm. Nhưng cũng đặt giả thiết Lê Bá Mai vô tội nhưng vẫn bị truy tố là có tội thì ngoài việc “bọ lọt tội phạm” còn có dấu hiệu của hành vi “truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội”.

4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Luật “vênh” nhau, biết đường nào thực hiện? Bài báo phản ánh: Đây là lời than phiền từ phía cơ quan bảo hiểm xã hội (BHXH) các địa phương về trách nhiệm thanh toán chi phí khi người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

Hiện nay về việc này, quy định trong Bộ luật Lao động 2012 và Luật Bảo hiểm y tế 2008 đang có độ “vênh”, khiến người sử dụng lao động và các cơ quan quản lý lao động lúng túng, không biết triển khai, thực hiện ra sao.

Cụ thể, Điều 144 Bộ luật Lao động 2012 quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là phải thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế và thanh toán toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế.

Trong khi đó, theo Mục 9 Điều 23 Luật Bảo hiểm y tế 2008, các trường hợp không được hưởng bảo hiểm y tế gồm khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng đối với bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao động, thảm họa…

Theo cơ quan BHXH TP.HCM, sự “vênh” nhau giữa Bộ luật Lao động và Luật Bảo hiểm y tế nói trên đã khiến cơ quan BHXH hết sức lúng túng. Chưa kể, nếu căn cứ theo Bộ luật Lao động 2012 thì cơ quan BHXH sẽ phải “đồng chi trả” chi phí cùng doanh nghiệp đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Nhưng tỉ lệ “đồng chi trả” này là bao nhiêu thì lại chưa có quy định, hướng dẫn.

Trước vướng mắc này, trao đổi với PV, Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Phạm Minh Huân thừa nhận đây là một bất cập làm cả cơ quan BHXH lẫn các doanh nghiệp lúng túng. Ông cho biết cuối tháng 6-2013, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan để đưa ra hướng dẫn thực hiện nhằm tháo gỡ sự chồng chéo giữa hai luật thay vì phải chờ đến lúc sửa đổi Luật Bảo hiểm y tế.

III- THÔNG TIN KHÁC

Trang vtv.vn có bài Hội thảo ASEAN - Trung Quốc về cứu hộ trên Biển Đông. Bài báo đưa tin:  Sáng 19/6, Hội thảo ASEAN - Trung Quốc về tìm kiếm cứu hộ đối với người và tàu thuyền gặp nạn tại Biển Đông đã khai mạc tại Hà Nội. Đây là sự kiện nhằm xây dựng lòng tin và cũng là một biện pháp trong Kế hoạch hành động triển khai Quy tắc hướng dẫn thực thi Tuyên bố ứng xử các bên tại Biển Đông, do các quan chức cao cấp ASEAN và Trung Quốc thông qua tại cuộc họp tháng 1 năm ngoái tại Bắc Kinh.   

Phát biểu khai mạc hội thảo, Thứ trưởng Ngoại giao Phạm Quang Vinh nhấn mạnh, tình hình Biển Đông vẫn phức tạp và tiềm ẩn những rủi ro. Trong khi đó, cũng không ít các nguyên nhân, cả thiên nhiên, thời tiết đến bản thân con người như bệnh tật hay hỏng hóc tàu thuyền, có thể dẫn đến việc người và tàu thuyền đi biển gặp nạn. Đối tượng gặp nạn là người đi biển, là những người dân thông thường hay các ngư dân. Chính vì vậy, vì mục đích nhân đạo, ASEAN và Trung Quốc cần cùng nhau bàn thảo để có chính sách hợp tác và các biện pháp phối hợp tìm kiếm, cứu hộ cần thiết và phù hợp có ý nghĩa cả về mặt nhân đạo và xây dựng lòng tin.

Tại hội thảo, các quan chức ASEAN và Trung Quốc sẽ tập trung thảo luận 3 vấn đề: Về thực trạng và sự cần thiết xây dựng các biện pháp chung trong hỗ trợ người và tàu thuyền gặp nạn tại Biển Đông; các nhân tố tác động đến việc phối hợp hỗ trợ nhân đạo trong khu vực và các khuyến nghị cụ thể về tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tìm kiếm cứu hộ đối với người và tàu thuyền gặp nạn tại Biển Đông.

Kết quả hội thảo sẽ được báo cáo lên các quan chức cấp cao ASEAN và Trung Quốc xem xét.



File đính kèm