Điểm tin báo chí sáng ngày 09 tháng 4 năm 2013

09/04/2013
Trong ngày 08/4 và đầu giờ sáng ngày 09/4/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

            1. Báo Người đưa tin có bài Góc khuất đằng sau dịch vụ công chứng tư. Bài báo phản ánh: Xã hội ngày càng phát triển, việc mở rộng mạng lưới văn phòng công chứng tư là cần thiết, tạo "lá chắn" pháp lý an toàn cho các hợp đồng, giao dịch; góp phần giảm tải "gánh nặng" cho công chứng Nhà nước.

            Sau 5 năm Luật Công chứng đi vào cuộc sống, nhu cầu công chứng các bản dịch, hợp đồng bất động sản, hợp đồng kinh tế ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cũng ngày càng phát triển. Không thể phủ nhận những hiệu quả mà dịch vụ này mang lại. Tiết kiệm tối đa thời gian, chi phí, tránh mất tiền oan vào tay "cò", hoạt động công chứng tư còn là "lá chắn" hữu hiệu về mặt pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch từ dân sự đến kinh tế. Tuy nhiên, theo phản ánh của người dân, vẫn có không ít "con sâu" đang tồn tại trên mảnh đất được cho là "màu mỡ" này. Đến với công chứng tư, khách hàng không chỉ đối mặt với tình trạng lệ phí mỗi nơi một mức mà còn phải đương đầu với nhiều bất cập, nếu không muốn nói là rủi ro.

            Trên thực tế, người dân đến các văn phòng công chứng chủ yếu vì không muốn tốn công chờ đợi. Lợi dụng tâm lý này, các văn phòng công chứng tư đã tung giá "trên trời" với các "thượng đế". Anh Phan Mạnh Tùng (Hà Nội), hiện là trưởng phòng kế hoạch của một công ty xây dựng tại Hà Nội nên anh phải thường xuyên giao dịch những hợp đồng về bất động sản, hợp đồng kinh tế. Anh Tùng chia sẻ: "Tôi may mắn được học qua ngành luật nên cũng am hiểu đôi chút về những điểm cơ bản mà luật pháp quy định. Văn bản công chứng được coi là những chứng cứ không phải chứng minh, là "lá chắn" pháp lý an toàn cho các cá nhân, doanh nghiệp. Do đó, mỗi lần đi công chứng, tôi phải đến nhiều địa điểm khác nhau để kiểm tra chéo. Điều đầu tiên tôi nhận thấy là giá cả thất thường, hóa đơn chứng từ lộn xộn. Tôi không phải là người chịu trách nhiệm trong việc công chứng sai với những hợp đồng gốc, hay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng tôi thấy quan ngại cho việc công chứng hiện nay, nhất là công chứng tư".

            Sau khi Luật Công chứng có hiệu lực (ngày 1/7/2007), các văn phòng công chứng tư ồ ạt ra đời, đáp ứng nhu cầu của tổ chức cá nhân khi thực hiện các ký kết hợp đồng giao dịch. Tuy nhiên, hình thức này bộc lộ nhiều bất cập và tiềm ẩn không ít nguy cơ. Thực tế, đã có không ít bài học đau đớn mà nguồn cơn xuất phát từ dịch vụ công chứng tư.

            Một chuyện "vô tiền khoáng hậu" xảy ra ngay tại Thủ đô cách đây ít lâu mà chúng tôi được một người bạn kể lại. Người này nói đùa: "Nhà báo phải giật cái tít là "Chuyện thật như bịa, người chết 5 tháng vẫn sống lại nhờ... công chứng". Sự là, một chị tại Hà Nội có một ngôi nhà mặt phố có giá trị lớn. Chồng chị này lâm bệnh mất cách đây khá lâu và không để lại di chúc. Mẹ chồng cũng mới mất được khoảng 5 tháng và không kịp di chúc lại ngôi nhà cho ai. Kết cục, ngôi nhà bị anh em trong gia đình nhà chồng tranh chấp, ai cũng muốn có phần. Vốn sống hòa thuận, động đến lợi ích kinh tế cả nhà bỗng quay ra xích mích, mất đoàn kết.

            Không muốn ngôi nhà hương hỏa bị chia năm xẻ bảy, chị này đã nhờ đến văn phòng công chứng tư... "làm" di chúc cho mẹ. Nhưng điều trái khoáy, mẹ chị đã mất và không thể "cải tử hoàn sinh" được. Đặt vấn đề với một văn phòng công chứng, nhân viên ở đây đã tư vấn cho chị một "chiêu" có thể coi là "độc nhất vô nhị"... giúp mẹ chị "sống" dậy để viết di chúc. Bằng những thủ thuật, giả mạo từ hồ sơ đến dấu vân tay, nhân viên văn phòng công chứng trên hoá phép được một bản di chúc của bà mẹ đã mất. Cái giá phải trả cho "món quà" độc nhất vô nhị này là 70 triệu đồng trọn gói!?. 

            Theo lẽ thường, hầu hết các giao dịch ngoài giờ đều do nhân viên các văn phòng công chứng tư thực hiện. Sau khi làm thủ tục, các nhân viên sẽ có nhiệm vụ đem những văn bản này về để các công chứng viên ký và đóng dấu. Mỗi công chứng viên sẽ kiểm tra lại thông tin mà nhân viên mình đem về. Và như vậy, bên cạnh... niềm tin đối với nhân viên, họ còn trông cậy vào sự... thật thà của hai bên giao dịch.

            Anh Phan Mạnh Tùng phân tích, bằng mắt thường, công chứng viên không thể phát hiện đâu là chữ ký thật, đâu là con dấu thật. Thêm vào đó, nếu công chứng viên cố ý làm sai lệch về ngày tháng, để cho kịp với hồ sơ thầu, hay những hợp đồng kinh tế sẽ không dễ để phát hiện. Thường những hợp đồng công chứng về bất động sản, hay hợp đồng kinh tế là những hợp đồng có giá trị lớn về tài chính, có thể lên tới hàng trăm tỷ. Thử đặt giả thiết nếu công chứng tư có công chứng nhầm những hồ sơ giả mạo, ai sẽ là người chịu trách nhiệm đền số tiền đó, khi mà hiện nay các văn phòng công chứng tư không có một khoản tiền nào theo quy định bắt buộc về vốn cũng như bảo hiểm để chi trả cho những rủi ro?.  

2. Báo Thanh niên Online có bài Không được đến trường vì chưa có giấy khai sinh. Bài báo phản ánh: Đó là trường hợp của hai cháu Long Thụy Thiên Kim (6 tuổi) và Long Đình Tuấn (5 tuổi) ở Q.8, TP.HCM.

Cả hai cháu là con của anh Long Thế Phương, 29 tuổi (ở Q.1, TP.HCM) và chị L.T.N.A (Q.8, TP.HCM). Anh Phương cho biết vợ chồng anh sống với nhau không đăng ký kết hôn và đến năm 2009 thì vợ anh bỏ đi. Khi các con đến tuổi đi học, anh Phương mang giấy chứng sinh đến nơi anh thường trú là UBND P.Cầu Kho, Q.1 để khai sinh cho con thì nơi đây bảo phải khai sinh tại nơi người mẹ đăng ký hộ khẩu thường trú. Nghe vậy, anh đến UBND P.4, Q.8, nơi mẹ các cháu thường trú thì nơi đây bảo do không có giấy đăng ký kết hôn, vợ chồng không có chung sổ hộ khẩu nên chính người mẹ phải trực tiếp mang giấy chứng sinh đến đăng ký làm khai sinh cho con.

Hiện hai cháu đang nương tựa vào sự chăm sóc của bà cố là bà Đoàn Thị Chín, nay đã 85 tuổi do anh Phương bị bệnh, thất nghiệp thường xuyên. Cả gia đình tạm trú trong căn nhà nhỏ xíu, ẩm thấp ở ấp 4, xã Bình Hưng, H.Bình Chánh. Do không có khai sinh nên hai cháu chưa được nhận vào học lớp 1 hay mẫu giáo ở nơi tạm trú.

Bà Nguyễn Thị Ngọc Mỹ, cán bộ tư pháp - hộ tịch xã Bình Hưng (H.Bình Chánh, TP.HCM) cho biết: “Nếu có giấy của UBND phường nơi mẹ hai cháu bé thường trú (tạm trú) xác nhận chưa cấp khai sinh cho các cháu, ba các cháu xác nhận các cháu là con thì UBND xã sẽ tiến hành thêm một số thủ tục khác để cấp giấy khai sinh, tạo điều kiện cho hai cháu được đến trường...”.

            3. Báo Đại đoàn kết có bài Lời ru buồn trên rẻo cao. Bài báo phản ánh: Ở cái tuổi mà người ta gọi là "vắt mũi chưa sạch” thì đã phải làm vợ, làm mẹ. Thậm chí có người phụ nữ chưa đầy 20 tuổi đã sinh đến 3 đứa con. Đó là nghịch cảnh vẫn thường xảy ra ở không ít vùng dân tộc thiểu số, trong đó có huyện Sìn Hồ (tỉnh Lai Châu).

            Lên Sìn Hồ đã có đường ô tô. Vào trung tâm các xã đã có đường xe máy. Cuộc sống người Sìn Hồ đã đổi thay. Cái chữ đã được dạy ở từng thôn bản nhưng những tập tục, nạn tảo hôn thì chưa thay đổi được là bao, dẫu các cấp chính quyền đã tập trung lực lượng ra tay. Người dân vẫn coi "phép vua thua lệ làng”, bỏ qua quy định độ tuổi dựng vợ gả chồng mà làm theo tập tục từ bao đời. Tất cả đã sinh ra một hệ lụy là "buộc” những đứa trẻ phải làm cha, làm mẹ quá sớm. Buộc những đứa trẻ phải sinh ra trong sự thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần nên sinh ra còi xương, suy dinh dưỡng. Hay đau buồn hơn là không thiếu trẻ chết ngay khi được sinh ra. Nạn tảo hôn còn khiến cơ thể người các thế hệ sau cứ bị nhỏ dần, thấp dần do "giống không tốt”, chưa phát triển hoàn thiện đã phải sinh nở.

            Đã đến lúc các cấp chính quyền cần có những kế hoạch lâu dài, tổng thể, thiết thực hơn nhằm xóa bỏ những hủ tục đã ăn sâu vào máu bà con dân tộc thiểu số. Ngăn chặn tình trạng tảo hôn là một bài toán khó, bởi nhận thức của bà con còn quá lạc hậu. Nhưng chẳng lẽ, chúng ta chấp nhận để xuất hiện những "bà mẹ thiếu niên”, làm tăng thêm số người đói nghèo? Chừng nào điều đó còn diễn ra thì hậu quả lâu dài không chỉ là vấn đề kinh tế, mà sâu xa hơn là chất lượng dân số sẽ đi thụt lùi.

            II- THÔNG TIN KHÁC

Báo Người Lao động có bài Đòi bỏ hơn 70 triệu tàng thư vân tay, một tài sản vô giá!. Bài báo phản ánh: Hơn 70 triệu tàng thư vân tay lưu giữ tại 63 tỉnh, thành là tài sản vô giá của quá trình quản lý công dân suốt 37 năm qua. Vậy mà đề án cấp mã số định danh 12 chữ số (đang thử nghiệm) “đòi” khai tử số tàng thư này.

            Ngạc nhiên vì trong một văn bản chính thức mà Chính phủ cho phép tồn tại song song 2 khái niệm có bản chất là một, đó là số định danh cá nhân và số CMND. Danh mục 22 nhóm thông tin đưa ra cũng vừa thừa vừa thiếu. Nghị định 136/2007/NĐ-CP ngày 17-8-2007 quy định: “Hộ chiếu quốc gia được sử dụng thay thế CMND”.  Sau khi nghị định này ban hành, hàng loạt tờ khai ra đời và thay thế mục số CMND, ngày cấp, nơi cấp thường dùng trước đây bằng mục số CMND hoặc số hộ chiếu. Như vậy, xảy ra chuyện ngược đời là lẽ ra phải ban hành văn bản quy định thống nhất sử dụng số căn cước trong cả nước thì lại cho phép cùng tồn tại 3 loại số căn cước khác nhau, gồm: Số định danh cá nhân, số CMND và số hộ chiếu.

            Một lần, trên truyền hình, Thứ trưởng Bộ Thông tin - Truyền thông Đỗ Quý Doãn phát biểu rằng khi đăng ký sim điện thoại di động trả trước, công dân phải dùng CMND chứ không được dùng hộ chiếu. Như vậy, Thứ trưởng đã phát hiện ra sự bất cập của vấn đề.

            Các chuyên gia của Tổng cục Cảnh sát và Bộ Công an chẳng lẽ không biết số định danh cá nhân chính là số CMND mà Bộ Công an đã, đang làm với diện công dân từ 14 tuổi trở lên từ năm 1976 đến nay. Nhiều người ngoài ngành công an có thể chưa hình dung được rằng cấp số duy nhất cho một công dân thì dễ nhưng bảo đảm cấp lại cho công dân đó đúng số đã cấp mới là việc khó.

            Bộ Công an từ năm 1976 đến nay đã tiếp thu công nghệ của FBI (Mỹ) thông qua hệ thống tàng thư vân tay 16 triệu chỉ bản của cảnh sát chế độ cũ và xây dựng thành công một hệ thống tàng thư vân tay CMND đồ sộ của toàn dân gồm 63 tàng thư tại 63 địa phương với khoảng 70 triệu chỉ bản cũng chỉ để nhằm cấp cho mỗi công dân từ 14 tuổi một số CMND duy nhất. Nay, nếu cần mở rộng ra để cấp cho mọi công dân từ khi sinh ra thì có thể dễ dàng điều chỉnh bằng cách cấp trước số CMND tại thời điểm đăng ký hộ khẩu hay khai sinh nhưng cả nước phải thống nhất dùng chung 1 cơ chế cấp số, để chờ đến khi các trẻ em đó lên 14 tuổi sẽ lấy những số đó làm CMND.

            Các thuật ngữ: Số CMND, số định danh cá nhân, mã số công dân hay số căn cước duy nhất chẳng qua chỉ là cách dịch khác nhau từ cùng một từ gốc tiếng Anh là “Identification Number”, viết tắt là ID. Wikipedia liệt kê hàng trăm nước với hàng trăm cách cấp số ID khác nhau nhưng đều tuân thủ nguyên tắc một quốc gia chỉ có một hệ căn cước.

            Nhiều người cũng thường liên hệ số căn cước của các nước khác mà không hiểu một thực tế là hệ CMND hiện hành của Việt Nam là một trong số ít hệ căn cước quốc gia đi đầu trong việc dùng công nghệ nhận dạng vân tay để bảo đảm tính duy nhất trên quy mô toàn dân. Đây là điều mà tất cả các nước lớn trên thế giới đều mong muốn làm nhưng chưa làm được (vì quốc hội của họ chưa cho phép). Dự án dân cư Hải Phòng với hơn 10 triệu euro dự định học tập kinh nghiệm của Hungary để cấp lại mã số định danh 12 chữ số và thu thập mới thông tin từ đầu mà không kế thừa hệ CMND ưu việt của ta là đẩy lùi nước ta tụt hậu khoảng 30-40 năm về quá khứ.

            Chúng ta cần ghi nhận là số CMND hiện nay dù còn được bảo đảm bằng tàng thư thẻ phiếu thủ công nhưng đã là số định danh cá nhân được sử dụng rộng rãi, là khóa kết nối thông tin đã xâm nhập, bám rễ sâu rộng vào mọi hồ sơ của các ngành và công dân ở nước ta từ năm 1976 đến nay. Đây là tài sản vô giá của ngành công an được nhiều thế hệ công phu xây dựng.

            Tuy nhiên, cần phải nói rằng việc cấp CMND thủ công lâu nay cũng mới bảo đảm tính duy nhất trong phạm vi từng địa phương. Khi công dân chuyển hộ khẩu từ địa phương này sang địa phương khác thì công an cấp lại số CMND mới với số mới. Điều đó khiến nhiều công dân có tới 2-3 CMND với số riêng khác nhau. Lỗi này hoàn toàn có thể sửa được bằng cách bỏ quy định trên và thừa nhận số CMND do một địa phương cấp có giá trị trên toàn quốc.

            Số CMND 9 chữ số hiện nay với 2 chữ số đầu làm mã serie và 7 chữ số sau là số thứ tự từ 1 - 9999999, có khả năng cấp cho 1 tỉ công dân. Nếu mở rộng 2 chữ số đầu, cho phép dùng ký tự từ A-Z thì khả năng đánh số lên tới 36 x 36 x 10 triệu = 12,960 tỉ, đủ cấp cho cả hành tinh này! Đấy là chưa kể có thể dùng lại số của người đã mất sau 50 năm.



File đính kèm