I- THÔNG TIN NỔI BẬT
Báo Quân đội nhân dân đưa tin Cần thiết ban hành Nghị định Kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng. Chiều qua, 8-10, trong khuôn khổ Phiên họp thứ 12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) thảo luận và cho ý kiến về dự thảo Nghị định Kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng (dành cho người nước ngoài tại Việt Nam). Đa số ý kiến của các thành viên UBTVQH đều tán thành việc ban hành Nghị định. Tuy nhiên, các đại biểu UBTVQH cho rằng, Ban soạn thảo cần cắt gọt và bổ sung một số vấn đề để Nghị định hoàn thiện hơn.
Báo cáo thẩm tra về Dự thảo Nghị định kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng, do Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội thực hiện, nêu rõ: Việc ban hành Nghị định là cần thiết. Trước đây, điều chỉnh về vấn đề này chỉ có Quyết định số 32/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Trước sự phát triển về kinh tế - xã hội, đến nay, nhiều quy định đã không còn phù hợp với thực tiễn; một số vấn đề phát sinh trong tổ chức thực hiện chưa được điều chỉnh dẫn đến quản lý gặp khó khăn; việc tổ chức kinh doanh thiếu quy hoạch; số lượng cấp phép nhiều nhưng chưa chặt chẽ, quy mô đầu tư nhỏ, phân tán, hiệu quả kinh doanh thấp… Việc ban hành Nghị định này sẽ khắc phục những hạn chế của khung pháp lý hiện hành, góp phần tạo thuận lợi cho quá trình thực thi, từng bước nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác hợp lý nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Thậm chí, có ý kiến trong Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội còn cho rằng, về lâu dài, cần pháp điển hóa các văn bản dưới luật về các loại hình kinh doanh trò chơi có thưởng, casino, cá cược thể thao thành một đạo luật chung nhằm tăng cường hiệu lực quản lý, tạo căn cứ pháp lý ổn định, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống các văn bản pháp luật liên quan.
Phát biểu ý kiến thảo luận, Phó chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cho rằng, dự thảo Nghị định có đề cập tới nhiều bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các tỉnh, nhưng chưa nêu rõ trách nhiệm của từng cơ quan như thế nào. Về vấn đề này, Bộ trưởng Vương Đình Huệ khẳng định sẽ rà soát lại và bổ sung quy định theo hướng nêu rõ trách nhiệm của từng cơ quan.
Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Trương Thị Mai băn khoăn: Theo quy định trong dự thảo thì chỉ những khách sạn 5 sao mới được cấp giấy phép tổ chức hoạt động trò chơi điện tử có thưởng. Vậy, những khách sạn 3 - 4 sao đã được cấp phép thì xử lý như thế nào? Trả lời câu hỏi này, Bộ trưởng Bộ Tài chính khẳng định sẽ chưa thể “dẹp” ngay những cơ sở đã được cấp phép kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng ở khách sạn 3 - 4 sao. Do vậy, dự thảo Nghị định đã dự liệu và quy định rõ về thời hạn chuyển tiếp tại Điều 50 là 1 năm. Sau 1 năm, các cơ sở không đáp ứng đủ điều kiện hay không làm thủ tục đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng sẽ không được phép kinh doanh loại hình giải trí này.
Giải đáp băn khoăn của Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân rằng, người có 2 quốc tịch - trong đó có quốc tịch Việt Nam - có được phép tham gia trò chơi điện tử có thưởng không, Bộ trưởng Vương Đình Huệ nêu rõ: Những trường hợp này được phép chơi. Tuy nhiên, Bộ trưởng Huệ nói, cơ quan soạn thảo sẽ tiếp thu ý kiến của Phó chủ tịch Quốc hội để quy định chi tiết, rõ ràng hơn trong Nghị định.
Phát biểu kết luận, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nói: Kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng là lĩnh vực nhạy cảm, do vậy cần thiết phải ban hành Nghị định điều chỉnh. Tuy nhiên, Phó chủ tịch Quốc hội yêu cầu Ban soạn thảo tiếp thu ý kiến thẩm tra và ý kiến đóng góp của các thành viên UBTVQH để hoàn thiện dự thảo.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Đại đoàn kết có bài Thi hành án hành chính (THAHC): Dân thắng kiện, có khó. Bài báo phản ánh: Công tác THA dân sự đã và luôn gặp những khó khăn xuất phát từ việc trốn tránh trách nhiệm của đối tượng phải THA. Nhiều vụ án phức tạp vài chục năm trời vẫn không thi hành được. Những tưởng sự vướng là do có những dân "cùn”, vậy nhưng ngay với án hành chính càng khó khăn, nhất là khi bị đơn là cơ quan nhà nước thua kiện.
Chuyện tưởng như quá đơn giản, bởi án hành chính là việc các cấp Tòa án xét xử những quyết định hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, mà nguyên đơn là công dân (cá nhân, tổ chức), bị đơn là cơ quan nhà nước, hoặc cá nhân đại diện cho Nhà nước ban hành quyết định hành chính. Trong trường hợp dân "thắng kiện”, tức khi Tòa án huỷ quyết định hành chính, thì cơ quan nhà nước, cá nhân được trao quyền cần khôi phục lại các quyền lợi cho cơ quan, tổ chức (nguyên đơn). Việc tưởng chừng như nằm trong tầm tay của các cá nhân lãnh đạo, hay cơ quan chính quyền liên quan. Thế nhưng, trên thực tế lại không như vậy. Vấn đề chính là do cơ quan ban hành quyết định hành chính - bị đơn trong vụ án, chính lại là cơ quan tổ chức thi hành bản án, không vì dân mà lại "ăn thua” với dân.
Đơn cử, ngày 10-2-2012, TAND tỉnh Thanh Hoá đã xử phúc thẩm (Bản án số 01/2012/HC-PT) vụ án hành chính: "Khởi kiện quyết định hành chính trong việc cấp GCNQSDĐ”. Nguyên đơn là các ông Lê Đăng Hà, Lê Đăng Giảng (trú tại Hà Nội), bị đơn là UBND huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Toà tuyên giữ nguyên nội dung Quyết định của án sơ thẩm, tuyên huỷ một phần quyết định 1485/QĐ-UB ngày 11-10-2006 của UBND huyện Hoằng Hoá về việc cấp GCNQSDĐƠ cho hộ ông Lê Đăng Thiện và bà Lê Thị Miên ở thửa đất số 473, tờ bản đồ số 06, bản đồ địa chính xã Hoằng Đạt để làm lại trình tự thủ tục cấp GCNQSDĐƠ theo đúng quy định của pháp luật về đất đai. Nội dung vụ việc cũng không có gì phức tạp. Cha của các ông Hà, Giảng là cụ Lê Đăng Gơ có 10 người con. Khi mất cụ có di chúc để lại khối gia sản gồm 5 gian nhà trên diện tích đất 753m2 tại xã Hoằng Đạt (Hoằng Hoá) cho các ông Thiện, Hà và bà Dung. Tuy nhiên, từ năm 1985, trên sổ địa chính, UBND xã Hoằng Đạt đã tự thay tên chủ sở hữu từ cụ Gơ sang ông Thiện. Năm 1994, UBND huyện Hoằng Hoá lại cấp đất này cho con gái ông Thiện là cô Lê Thị Oanh (đang ở nhờ). Năm 2001, UBND Hoằng Hoá chuyển cấp đất này cho ông Thiện (trong khi trên sổ địa chính lại mang tên bà Lê Thị Miên). Năm 2006 UBND huyện Hoàng Hoá cấp lại sổ đỏ mang tên ông Lê Đăng Thiện và bà Lê Thị Miên. Từ khiếu nại của các con cụ Gơ, ngày 28-10-2011 TAND huyện Hoằng Hoá đã tuyên huỷ Quyết định 1485/QĐ-UBND của UBND huyện Hoằng Hoá.
Những tưởng sau khi quyết định của Toà án có hiệu lực thì UBND huyện Hoằng Hoá phải chỉnh sửa lại Quyết định 1485, huỷ giấy chứng nhận cũ cấp cho ông Thiện, bà Miên để làm lại thủ tục cho các đồng thừa kế như Toà tuyên. Vậy nhưng, khi các nguyên đơn - đồng thừa kế có đơn xin thi hành án, thì UBND huyện này lại có văn bản trả lời: "GCNQSDĐ đã cấp cho ông Lê Đăng Thiện và bà Lê Thị Miên vẫn còn có giá trị pháp lý, do vậy được đính chính, bổ sung các đồng sử dụng (đồng thừa kế)”. Kiểu THA "cố cãi” này chưa đúng pháp luật, khiến vụ khiếu kiện tiếp tục kéo dài.
Theo quy định của pháp luật, nếu tổ chức, cá nhân không chấp hành bản án có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trước pháp luật dù là cá nhân hay tổ chức, pháp nhân đều bình đẳng. Nếu xét về lý, nếu bên phải THA là tổ chức, chính quyền thì càng phải gương mẫu, chấp hành pháp luật. Ngày 25-5-2012, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 17/CT-TTg về việc triển khai công tác THAHC. Chỉ thị nêu rõ: "Thực tiễn thi hành Luật thời gian qua cho thấy, công tác THAHC chưa được triển khai đầy đủ, vẫn còn tình trạng nhiều bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính chưa được thi hành nghiêm túc. Nguyên nhân chính là do tính chất phức tạp của công tác THAHC; nhận thức về công tác THAHC của các cấp, các ngành còn hạn chế; tại một số địa phương, các cấp chính quyền chưa thực sự quan tâm chỉ đạo thực hiện công tác này...”. Thủ tướng đã giao trách nhiệm cho các Bộ, ngành, yêu cầu quy rõ trách nhiệm để xử lý.
Rõ ràng trong lĩnh vực trên, trách nhiệm cá nhân là vô cùng quan trọng. Không thể cứ chung chung đối tượng bị kiện là UBND (xã, huyện, tỉnh), để rồi lẩn tránh trách nhiệm, mà cần quy rõ người đứng đầu phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Như trong vụ việc tại Thanh Hoá nói trên thì ông Chủ tịch UBND huyện Hoằng Hóa sẽ phải là người chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật, không thể "uỷ quyền” chịu trách nhiệm cho một vị cán bộ của Phòng TN&MT huyện như ở trước Toà.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Cân nhắc siết nhập cư ở các đô thị. Bài báo phản ánh: Cần suy nghĩ về việc có nên quy định một khung chặt cho các đô thị, hay các điều kiện ấy chỉ nên áp dụng cho hai địa phương có áp lực dân cư lớn là Hà Nội, TP.HCM mà thôi?
Chuyện hạn chế cấp hộ khẩu thường trú vào các đô thị lớn giờ không chỉ là một nội dung của dự thảo Luật Thủ đô, vừa được Thường vụ QH thảo luận cuối tuần trước, mà còn là nội dung cơ bản của việc sửa đổi Luật Cư trú mà Bộ Công an đang chủ trì. Xử lý vấn đề này thế nào để hài hòa giữa quyền tự do cư trú của công dân và khả năng đáp ứng của điều kiện hạ tầng cũng như năng lực quản lý tại các đô thị? Pháp Luật TP.HCM phỏng vấn TS Lê Hồng Sơn, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp), xung quanh vấn đề này.
Phóng viên: Là người đấu tranh với nghị quyết hạn chế thường trú của HĐND TP Đà Nẵng, ông nghĩ thế nào về việc siết đăng ký thường trú thể hiện trong dự thảo Luật Thủ đô?
+ TS Lê Hồng Sơn: Tôi cơ bản đồng tình với dự thảo này. Thậm chí, quá trình tham gia ý kiến, tôi còn đề xuất thêm cơ chế để HĐND TP Hà Nội có thể cho tạm dừng có thời hạn việc cấp hộ khẩu thường trú tại địa bàn cụ thể, với lý do nơi đó đã quá chật chội, đông đúc, quá tải về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. Tất nhiên, thủ tục phải ngặt nghèo. HĐND phải xin ý kiến trung ương, có thể là Chính phủ hoặc Ủy ban Thường vụ QH. Phải giải trình công khai, thuyết phục người dân, cấp trên chấp thuận mới được ra quyết định tạm dừng. Và tạm dừng chỉ trong thời hạn nhất định để địa phương giải quyết vấn đề chật chội, đông đúc, quá tải ở nơi đó. Hà Nội có vẻ hưởng ứng với đề xuất này nhưng lên trên thì ngại ngần nên không đưa vào dự thảo.
Ví dụ, quận Đống Đa, Hoàn Kiếm hoặc một phường, tổ dân cư nào đó quá chật chội, lại đang trong dự án dãn dân để đảm bảo tiêu chuẩn tối thiểu về đời sống đô thị thì có thể áp dụng hình thức tạm dừng này. Nhưng phải công bố thời hạn, vừa là cam kết để chính quyền giải quyết vấn đề quá tải, vừa đảm bảo quyền cư trú hợp pháp cho người đủ điều kiện thường trú ở khu vực đó.
Thưa ông, vấn đề hạn chế xét thường trú giờ không chỉ được đặt ra trong dự án Luật Thủ đô. Mới đây, Bộ Công an đã đưa ra lấy ý kiến về dự thảo sửa đổi Luật Cư trú, tập trung vào điều kiện đăng ký thường trú, gần giống như dự thảo Luật Thủ đô. Áp dụng một khung chung theo hướng siết chặt như vậy cho cả năm TP trực thuộc trung ương thì có nên chăng?
+ Đúng là cần suy nghĩ. Có nên quy định một khung chặt cho các đô thị, hay các điều kiện ấy chỉ nên áp dụng cho hai địa phương có áp lực dân cư lớn là Hà Nội, TP.HCM? Tôi thấy ngoài hai TP lớn này thì các TP trực thuộc trung ương còn lại mật độ dân cư không đến nỗi nào. Ngay như Đà Nẵng, HĐND ra nghị quyết siết nhập cư (hiện đã tạm dừng thực hiện - PV) có lẽ vì lo xa thôi, chứ đây là TP đang mở rộng, đang phát triển, có chật chội gì đâu. Cho nên với các đô thị này thì việc siết điều kiện thường trú chỉ nên ở phạm vi hẹp, ở quận, phường nào đó thực sự quá tải dân số.
Thông tin người dân nhận được dường như chỉ nổi lên các biện pháp kỹ thuật hạn chế nhập cư vào các TP lớn, còn thì ít thấy quy định về trách nhiệm của chính quyền cải thiện điều kiện hạ tầng, có giải pháp khác về kinh tế-xã hội để kéo dãn mật độ dân cư…?
+ Thực ra khi thảo luận về vấn đề quyền tự do cư trú của người dân, rất nhiều ý kiến nhấn mạnh khía cạnh này. Đó là các TP phải có trách nhiệm quy hoạch hợp lý, chủ động dãn dân khu vực đông đúc, quá tải hạ tầng hoặc không đảm bảo an toàn, có các chính sách về kinh tế-xã hội khác để thu hút một cách tự nhiên người dân ra khỏi nội đô chật chội… Đây mới là giải pháp cơ bản giải quyết vấn đề quá tải dân cư ở các đô thị.
Tuy nhiên, trong phạm vi Luật Cư trú thì chỉ có thể quy định các vấn đề liên quan trực tiếp tới cư trú thôi. Còn các giải pháp kia, rất quan trọng nhưng phải giải quyết bằng các luật chuyên ngành khác.
3. Trang Info.net có bài Vụ Tiên Lãng: Luật sư kiến nghị lên lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Bài báo phản ánh: Luật sư Nguyễn Việt Hùng và Luật sư Phạm Xuân Nga kiến nghị: chỉ khi vụ án Tiên Lãng này được giải quyết đúng pháp luật thì quyền lợi hợp pháp của các bị can mới được bảo đảm; công bằng xã hội, công lý, pháp quyền và vai trò của luật sư mới được bảo đảm và thực thi hiệu quả trong thực tế hoạt động tố tụng ở nước ta.
Luật sư Nguyễn Việt Hùng và Luật sư Phạm Xuân Nga là 2 luật sư bào chữa cho bị can Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quý, Đoàn Văn Sịnh, Đoàn Văn Vệ thuộc vụ án “Giết người - Chống người thi hành công vụ” xảy ra ngày 05/01/2012, tại thôn Chùa Trên, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng - TP. Hải Phòng vừa có văn bản kiến nghị gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, Ủy ban kiểm tra T.Ư, Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam, Bí thư Thành ủy Hải Phòng về việc xem xét trách nhiệm của các cơ quan và người tiến hành tố tụng liên quan đến việc giải quyết vụ án ông Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, Hải Phòng theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI).
Văn bản của hai luật sư cũng kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Trưởng Ban Công tác đại biểu của Quốc hội và Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng đề nghị giám sát, xem xét tránh nhiệm các cơ quan và người tiến hành tố tụng liên quan đến việc giải quyết vụ án của ông Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, Hải Phòng.
III- THÔNG TIN KHÁC
Báo Dân Việt có bài Thuyên chuyển lãnh đạo hay "bỏ sâu từ cây này sang cây khác"?. Bài báo phản ánh: Sau 5 tháng sau khi bị kỷ luật Đảng, Chủ tịch UBND tỉnh Đăk Lăk, ông Lữ Ngọc Cư đã được thuyên chuyển sang để "mang ghế" sang ngồi tại Ban chỉ đạo Tây Nguyên.
Khuyết điểm, sai phạm của vị “quan” đầu tỉnh này liên quan đến những dự án trồng rừng, đến việc nâng cấp chỉnh trang đô thị, đến một số nguồn tiền tài trợ từ các tổ chức trong và ngoài nước, rồi cả việc bổ nhiệm cán bộ...
Những khuyết điểm của ông Cư, so với đánh giá của Nghị quyết 4 "chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc", có lẽ, cũng chẳng còn thiếu thứ gì. Đây cũng là những khuyết điểm, vi phạm được Ủy ban Kiểm tra T.Ư đánh giá là "Nghiêm trọng, gây thiệt hại về kinh tế và gây dư luận xấu, làm ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng...".
Nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra T.Ư Vũ Quốc Hùng bình luận về những khuyết điểm của vị “quan” đầu tỉnh Lữ Ngọc Cư như sau: "Đó là những sự vụ lợi mà thực ra những điều này thì ngay một học sinh phổ thông cũng nhận biết được đó là việc xấu". Nhưng ông Cư có phải là một trong "bộ phận không nhỏ"? Và khi đã phát hiện sai phạm thì liệu điều chuyển "một trong bộ phận không nhỏ" từ cơ quan này sang cơ quan khác có phải là hình thức "xử lý"? Đây là câu hỏi đã được đặt ra ngay sau khi có quyết định "chuyển" đối với ông Cư.
Tháng 5 năm ngoái, khi tiếp xúc cử tri quận 1, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định với cử tri sẽ rà soát, để thay đổi, tất cả các khâu, thể chế, tổ chức , con người nào chưa đáp ứng được mục tiêu đẩy lùi tham nhũng, lãng phí: "Trước đây chỉ một con sâu làm rầu nồi canh, nay thì nhiều con sâu lắm. Nghe mà thấy xấu hổ, không nhẽ cứ để hoài như vậy. Mai kia người ta nói một bầy sâu, tất cả là sâu hết thì đâu có được. Một con sâu đã nguy hiểm rồi, một bầy sâu là "chết" cái đất nước này".
Phát hiện ra được một "con sâu" là việc khó, rất khó. Nhưng ngay cả khi đã phát hiện được thì việc xử lý thế nào để người dân tin tưởng vào sự nghiêm minh, có lẽ, cũng chẳng dễ dàng. Bởi việc thuyên chuyển đối với những cá nhân đã sai phạm rành rành và nghiêm trọng đến như vậy, có khác gì bỏ con sâu từ cái cây này sang cái cây khác.
Thời phong kiến có câu "Hình bất thượng đại phu", tức hình luật chẳng bao giờ phạm được tới quan quyền. Không lẽ câu đó đúng cả ngay trong một xã hội thượng tôn pháp luật?