Điểm tin báo chí sáng ngày 06 tháng 7 năm 2012

06/07/2012
Trong buổi sáng ngày 06/7/2012, một số báo chí đã có bài phản ánh những sự kiện nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Trang web vtv.vn đưa tin: Sáng 05/7, Diễn đàn Việt Nam - Mỹ Latin về Thương mại và Đầu tư do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức đã chính thức khai mạc. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dự và phát biểu tại phiên khai mạc.

 Hoan nghênh và đánh giá cao việc tổ chức Diễn đàn, khẳng định đây là một sự kiện quan trọng giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ các nước Mỹ Latin và của cộng đồng doanh nghiệp hai bên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhắc lại mối quan hệ lịch sử và truyền thống tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị giữa Việt Nam và các nước Mỹ Latin, cho đây là nền tảng và điều kiện, sợi dây tinh thần vững chắc để hai bên gắn bó, củng cố quan hệ, đặc biệt là thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư.

 Các nước Mỹ Latin, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, thị trường rộng lớn với trên 570 triệu dân, quy mô GDP đạt trên 6.000 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu trên 1.000 tỷ USD, được xác định là một đối tác quan trọng của Việt Nam. Trong những năm qua, trao đổi thương mại giữa 2 bên có mức tăng ấn tượng với tổng kim ngạch thương mại hai chiều tăng 17 lần trong 10 năm qua, từ 300 triệu USD năm 2000 lên 5,1 tỷ USD năm 2011. Hiện cam kết đầu tư của Việt Nam tại các nước Mỹ Latin đạt trên 7 tỷ USD và cam kết đầu tư của các nước Mỹ Latin vào Việt Nam đạt khoảng 2 tỷ USD.

 Trang này cũng đưa tin: Theo thông báo của Bộ Tài chính, kết quả thu ngân sách nhà nước (NSNN) 6 tháng đầu năm nay tuy cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng chỉ đạt 46% dự toán cả năm. Đây được xem là tỷ lệ thấp nhất 5 năm qua. Thu NSNN trong nửa đầu năm 2012 đạt thấp là do cả thu thuế nội địa và thuế xuất nhập khẩu đều giảm mạnh so với kế hoạch đề ra.

 Thu ngân sách đạt thấp trong bối cảnh chi ngân sách 6 tháng qua tăng 12% so với cùng kỳ và bằng gần 46% dự toán cả năm đã gây áp lực cho Bộ Tài chính trong việc đảm bảo cân đối, khống chế bội chi năm nay ở mức dưới 4,8% GDP. Do vậy, nhiều nhiệm vụ trọng tâm trong điều hành thu chi NSNN 6 tháng cuối năm đã được Bộ Tài chính đề ra như tăng cường thanh tra, kiểm tra các DN có dấu hiệu gian lận thuế.

 Theo Bộ Tài chính, thời gian qua toàn ngành đã phát hiện trên 14,5 nghìn DN có vi phạm với số tiền thuế cần truy thu trên 3.600 tỷ đồng. Bên cạnh đó, việc đôn đốc thu nợ đọng thuế cũng sẽ được đẩy mạnh do các DN trên cả nước hiện vẫn đang chiếm giữ của ngân sách trên 42 nghìn tỷ đồng. 

 Ngoài ra, để đảm bảo cho thu ngân sách năm nay có thể hoàn thành được kế hoạch đề ra, Bộ Tài chính cũng đang chỉ đạo các đơn vị chức năng tăng cường đấu tranh với những hành vi như gian lận xuất xứ hàng hóa (CO) trong quá trình xuất nhập khẩu, hoạt động tạm nhập tái xuất tại các cửa khẩu và hành vi chuyển giá của cả DN trong nước và DN có vốn đầu tư nước ngoài.   

2. Báo điện tử Chính phủ có bài Bộ Chính trị cho ý kiến về phát triển KT-XH 4 vùng trọng điểm. Bài báo phản ánh: Hôm 5/7, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã họp, cho ý kiến về tổng kết 4 Nghị quyết (21, 37, 39, 53) của Bộ Chính trị (Khóa IX) về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh của 4 vùng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì hội nghị. Bốn vùng này là Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung, Trung du và miền núi phía Bắc.

Phát biểu kết luận, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định các nghị quyết trước đây Bộ Chính trị ban hành là cần thiết, đến nay vẫn còn đúng đắn, cần tiếp tục thực hiện các tư tưởng chỉ đạo đó, đồng thời bổ sung thêm những tinh thần mới của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, trong đó một tư tưởng rất mới là tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.

Tổng Bí thư tán thành việc chuẩn bị ra 4 Kết luận cho 4 vùng, nhưng cho rằng nội dung các Kết luận là vấn đề quan trọng, cần làm rõ một số vấn đề. Tổng Bí thư nhấn mạnh cần quán triệt các tư tưởng chiến lược, 3 khâu đột phá, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, trên cơ sở đó lựa chọn một số việc làm thiết thực để đưa nghị quyết vào cuộc sống, thúc đẩy phát triển trên thực tiễn. 

3. Báo Quân đội nhân dân có bài Thống nhất 5 nhiệm vụ trọng tâm. Bài báo phản ánh:  Ngày 4-7, Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Quốc phòng tổ chức đánh giá kết quả thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật 6 tháng đầu năm và triển khai công tác 6 tháng cuối năm 2012. Thượng tướng Nguyễn Thành Cung, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch Hội đồng dự và chủ trì hội nghị.

Từ đầu năm đến nay, hội đồng đã tổ chức hai hội nghị tập huấn báo cáo viên pháp luật tại khu vực phía Bắc với 414 học viên, phía Nam với 270 học viên tham gia, đạt kết quả tốt. Các cơ quan thành viên đã biên soạn tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật, tổ chức in 25.000 cuốn sách, cấp phát cho các cơ quan đơn vị trong toàn quân để nghiên cứu, học tập. Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Quốc phòng đã phát hành 21.000 bản tin pháp luật, tập trung nội dung giáo dục pháp luật cho lực lượng DQTV; chỉ đạo ngành tòa án quân sự nâng cao chất lượng xét xử các phiên tòa lưu động; gắn công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị tại các học viện, nhà trường trong quân đội. Bên cạnh đó, hội đồng đã chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí trong quân đội thực hiện tốt việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Tạp chí Quốc phòng toàn dân, Báo Quân đội nhân dân đã duy trì tốt các chuyên mục, chuyên trang phổ biến pháp luật, Luật DQTV, kịp thời phản ánh các hoạt động trong toàn quân.

Tại hội nghị, Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Quốc phòng đã thống nhất 5 nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện trong 6 tháng cuối năm 2012. Đặc biệt là việc kiểm tra, thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại các đơn vị, học viện, nhà trường quân đội; Tiếp tục chỉ đạo thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường” và Đề án “Đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng”.

II-NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo VnExpress có bài Giảng viên luật sẽ công tâm khi hành nghề luật sư. Bài báo phản ánh: Sau 5 năm có hiệu lực, Luật Luật sư đã góp phần tích cực trong việc nâng cao chất lượng cũng như số lượng luật sư. Tuy nhiên việc có nên để giảng viên luật được hành nghề luật sư hay không vẫn đang gây tranh cãi.

Việc giảng viên luật được phép hành nghề luật sư có lẽ là một bước quan trọng không chỉ trong việc nâng cao chất lượng, số lượng luật sư, hay giúp hệ thống giáo dục, đào tạo luật có hiệu quả, mà còn giúp các giảng viên nâng cao trình độ, tăng thêm thu nhập.

Tranh luận về việc này tại Quốc hội, đại biểu Nguyễn Sỹ Cương lo ngại sẽ “chảy máu chất xám” khi ông băn khoăn việc cho phép giảng viên luật hành nghề luật sư sẽ khiến các thầy cô giáo dạy luật rời bỏ các trường đại học ra làm nghề luật sư. Tuy nhiên chúng ta nên đặt câu hỏi ngược lại, việc không cho phép hành nghề luật sư có phải là nguyên nhân mà các giảng viên ở các trường đào tạo luật bỏ ra hành nghề luật sư hay không? Khi phải chọn một trong hai, có khi các trường đại học chỉ là nơi các giảng viên trẻ tích lũy kiến thức và khi “đủ lông, đủ cánh”, họ sẽ chọn con đường luật sư? Có lẽ điều này cũng có cơ sở bởi sức hút của mức thu nhập khá cao mà nghề luật sư mang lại. Ngoài ra, nghề dạy luật có những đặc thù riêng, ngoài kiến thức về lý thuyết, người thầy còn cần phải có kinh nghiệm thực tiễn. Việc được phép hành nghề luật sư sẽ giúp những người thầy mang những kiến thức lý thuyết của mình để thực tiễn kiểm chứng, và đôi khi đó là cách mà họ mới biết được những bất cập của các quy định của pháp luật hiện hành và từ đó có những kiến nghị sửa đổi.

Cũng như sự muôn hình vạn trạng của thực tiễn sẽ giúp người thầy không bị lạc hậu theo những trang giấy trong giáo trình, hay các điều luật. Do vậy, việc mang những vụ án, những tranh chấp mà họ đã tham gia cho sinh viên, hay những chia sẻ về những vấp váp trong việc hành nghề luật sư… sẽ giúp ích rất lớn cho sinh viên làm quen dần với nghề luật sư sau khi ra trường.

Hiện nay, có nhiều giảng viên rời bỏ các trường đại học, cao đẳng vì lương bổng của họ “không đủ sống”, trong số đó cũng không ít là các giảng viên luật. Việc tháo mở, cho phép hành nghề luật sư đối với giảng viên luật còn giúp họ kiếm thêm thu nhập, ổn định cuộc sống, cũng như giúp họ tự tin hơn trước sinh viên. Người học sẽ có thêm động lực để trở thành những luật sư nổi tiếng, bào chữa cho những người nghèo… như những người thầy của họ. Ngoài ra, một số người cho rằng mối quan hệ thầy-trò và khi trở thành luật sư-thẩm phán sẽ không công tâm khi xét xử. Bộ luật tố tụng hình sự quy định thẩm phán phải độc lập và chỉ tuân thủ pháp luật. Ngoài ra khi có các yếu tố cho rằng việc tham gia giải quyết vụ án là thiếu khách quan thì thành phần hội đồng xét xử cũng có thể bị thay thế.

Đại biểu Quốc hội, Phó Chánh án TAND TP.HCM Huỳnh Ngọc Ánh nhấn mạnh: “Để đảm bảo tính độc lập, từ thẩm phán đến kiểm sát viên đều không được phép tham gia công việc hay tổ chức nào khác, luật sư không thể là ngoại lệ”.

Tuy nhiên, việc giảng viên luật hành nghề luật sư, họ cũng sẽ độc lập. Tuy mang trên mình danh “viên chức” hưởng lương phần từ ngân sách nhà nước nhưng các giảng viên không phải là những người có trong tay quyền lực công để có thể chi phối quá trình xét xử.

Nghề dạy học, mối quan hệ phi thương mại, đơn thuần chỉ là “cho chữ”, do vậy cũng khác với những nghề như tư vấn chứng khoán, thương mại, môi giới ký kết hợp đồng… những nghề mà lợi ích liên quan tới lợi ích của nhiều chủ thể. Và nếu như những người hành nghề tư vấn hay môi giới này hành nghề luật sư thì có thể họ không độc lập và đôi khi bị chi phối, không hành nghề vì lợi ích của thân chủ.

Vì thế, việc giảng viên làm luật sư cũng sẽ đảm bảo tính độc lập, vì lợi ích thân chủ của họ. Hơn nữa, ở góc nhìn ngược lại, các luật sư cũng thường xuyên được mời giảng tại các trường đào tạo luật, tại sao các giảng viên luật không được lấn sang sân của luật sư?

Đại biểu Nguyễn Sỹ Cương (Ninh Thuận) cho rằng “không có phiên tòa nào mở ngoài giờ hoặc ban đêm”, giảng viên luật làm luật sư chắc chắn phải bớt xén thời gian giảng dạy, khó tránh tình trạng “chân ngoài dài hơn chân trong” hay một số đại biểu QH chỉ ra rằng nhiều phiên tòa đã chuẩn bị cẩn thận lại bị hoãn vì luật sư không thể có mặt, gây lãng phí và thiệt hại lớn.

Việc tư duy theo cách như vậy có lẽ là chưa hợp lý. Nếu hiểu như vậy, có khác nào “không cho phép buôn bán vì sợ buôn heroin”?. Giả sử, luật sư gửi bản bào chữa tới phiên tòa thì sao? Bởi Bộ luật tố tụng hình sự quy định việc tham gia phiên tòa là quyền của luật sư. Khi đã là quyền thì việc sử dụng hay không là quyền của họ. Thêm vào đó, giáo dục đại học nên hướng thư viện là trung tâm của người học, sự tự học và nghiên cứu của sinh viên mới là yếu tố quyết định, chứ không phải dựa vào giờ lên lớp. Người thầy là người hướng dẫn, định hướng, giải đáp thắc mắc khi sinh viên cần. Và do vậy, giảng viên luật cũng như các ngành khác nói chung nên có thời gian nghiên cứu, “tham gia thực tiễn” để nâng cao kiến thức để đáp ứng nhu cầu người học. Vì vậy, việc cho phép các giảng viên luật hành nghề luật sư sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ pháp lý và đào tạo luật của nước nhà cũng như giúp các giảng viên luật nâng cao kiến thức, tăng thêm thu nhập.

Một khi pháp luật cho phép giảng viên luật hành nghề luật sư, các trường đại học luật nên tạo mọi điều kiện thuận lợi để các giảng viên tham gia hành nghề luật sư có hiệu quả.

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Xúc phạm danh dự đến đâu thì phải bồi thường? Bài báo phản ánh: Ngày càng có nhiều vụ kiện ra tòa đòi xin lỗi, bồi thường do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại. Trong khi đó, pháp luật dân sự về lĩnh vực này vẫn còn không ít lỗ hổng…

Bộ luật Dân sự (BLDS) quy định danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng, được pháp luật bảo vệ. Người bị xúc phạm về danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu tòa buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai; bồi thường thiệt hại về vật chất và tổn thất về tinh thần...

Dù vậy, nhiều chuyên gia nhận xét luật vẫn còn những “lỗ hổng” trong lĩnh vực này.

“Lỗ hổng” đầu tiên, theo một thẩm phán Tòa Dân sự TAND TP.HCM là BLDS không đưa ra khái niệm thế nào là danh dự, nhân phẩm, uy tín. Tương tự, hành vi như thế nào thì được coi là xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác, luật cũng bỏ ngỏ. Việc quyết định hoàn toàn phụ thuộc vào nhận định cảm tính của tòa.

Chính vì vậy, thực tế đã phát sinh nhiều vụ đương sự quyết kiện ra tòa cũng bởi cho rằng mình bị xúc phạm nghiêm trọng, trong khi với những người khác thì chỉ là chuyện đụng chạm lặt vặt, đương sự “nhạy cảm” thái quá. Hoặc cũng có những vụ sinh hoạt của đương sự bị ảnh hưởng do bị xúc phạm nhưng tòa lại nhận định mức độ xâm phạm chưa nghiêm trọng để bác yêu cầu đòi bồi thường…

Một “lỗ hổng” khác liên quan đến chuyện bồi thường thiệt hại. BLDS quy định người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường thiệt hại cho người bị xâm hại những khoản sau: Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Ngoài ra, người gây thiệt hại còn phải bồi thường cho người bị thiệt hại một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần. Mức bồi thường tổn thất tinh thần do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá 10 tháng lương tối thiểu…

Theo luật sư Trần Hải Đức (Đoàn Luật sư TP.HCM), hiện cũng chưa có quy định hay hướng dẫn rằng mức độ xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín nghiêm trọng đến mức nào thì người vi phạm sẽ phải bồi thường? Do đó, việc chấp nhận yêu cầu đòi bồi thường hay không, nhất là bồi thường tổn thất về tinh thần cũng thuộc toàn quyền xem xét của tòa.

Luật gia Đặng Đình Thịnh (Giám đốc Trung tâm Tư vấn pháp luật - Hội Luật gia Việt Nam) nhận xét: Đúng là pháp luật vẫn còn chưa chi tiết, cụ thể trong lĩnh vực này nhưng nếu đòi hỏi phải chuẩn hóa theo dạng liệt kê các hành vi nào là xúc phạm, xúc phạm đến đâu phải bồi thường… sẽ rất khó khả thi.

Thứ nhất, hành vi xúc phạm vốn diễn ra rất đa dạng trên thực tế: Chửi bới, miệt thị trực tiếp, ở sau lưng rêu rao tin đồn thất thiệt, viết thư từ, email nói xấu, rỉ rả vu vạ… đủ kiểu. Thứ hai, một câu nói, một hành vi có bị xem là xúc phạm hay không còn tùy thuộc vào tri thức, văn hóa, vị trí xã hội… của người bị xúc phạm. Ví dụ, một giám đốc bị chửi ngay trước mặt hội đồng quản trị là đồ vô văn hóa, đồ bất tài thì rõ ràng đó là một sự xúc phạm đến uy tín, danh dự nặng nề. Nhưng nếu câu chửi ấy dùng cho một gã lưu manh ngoài đường thì có khi lại chỉ như “nước đổ lá môn”. Hoặc hai bà chợ búa chửi nhau có thể sẽ khác với một cô giáo bị chửi như vậy…

Theo một thẩm phán Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM, với những quy định hiện hành, nếu các thẩm phán cẩn thận xem xét toàn diện vụ việc như hành vi xúc phạm đó là gì, diễn ra ở đâu, có ai chứng kiến, người bị xúc phạm là người như thế nào, có chứng cứ chứng minh thiệt hại không… thì vẫn hoàn toàn có thể tuyên được một bản án thuyết phục.

III. THÔNG TIN KHÁC

Báo Nhân dân điện tử có bài Ðãi ngộ đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn. Bài báo phản ánh: Từ ngày 1-5 năm nay, lương tối thiểu của cán bộ, công chức đã được nâng lên mức 1.050.000 đồng. Tuy nhiên, có một lực lượng khá lớn  cán bộ xã, phường, thị trấn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, các địa phương nghèo chưa được hưởng chế độ này và đang đối mặt với nhiều khó khăn trong cuộc sống và công việc .

Một trong những thiệt thòi của đội ngũ cán  bộ  xã,  phường,  thị  trấn là chế độ đãi ngộ, chính sách hiện nay chưa hợp lý, chưa xứng đáng với công sức của họ trong công việc. Mặc dù, Nhà nước đã có sự quan tâm nhất định, cụ thể là Nghị định số 121/2003/NÐ-CP ngày 21-10-2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn; Bộ Chính trị có Thông báo số 13 -TB/T.Ư ngày 28-3-2011 về việc sửa đổi những bất hợp lý về tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ, công chức, viên chức cơ quan Ðảng, đoàn thể chính trị - xã hội. Theo thông báo này, các cơ quan Ðảng, đoàn thể chính trị - xã hội từ T.Ư đến cấp huyện sẽ thực hiện chế độ phụ cấp công tác là 30%... Tuy nhiên, cần tiếp tục có những chính sách, đãi ngộ đủ "mạnh" để động viên và bảo đảm cho người cán bộ cơ sở, nhất là cấp xã, phường, thị trấn  yên tâm công tác trong điều kiện đời sống vật chất có nhiều khó khăn. Ðây cũng là ý kiến, đề xuất của nhiều đại biểu Quốc hội đưa ra trong Kỳ họp thứ ba, QH khóa XIII vừa qua.

Trong thực tế hiện nay, tại các địa phương trong cả nước, nhiều cán bộ xã, phường, thị trấn phải kiêm nhiệm nhiều việc thuộc lĩnh vực mình phụ trách nhưng lại chỉ được hưởng chế độ phụ cấp hằng tháng. Mức hưởng này cũng không giống nhau. Ðịa phương nào có điều kiện, có sự quan tâm thì ở đó cán bộ phường, xã, thị trấn được "linh hoạt" hơn trong việc chi trả phụ cấp; địa phương nào nghèo, khó khăn thì mức phụ cấp dành cho cán bộ lại thấp. Qua khảo sát tại một số địa phương, chúng tôi thấy rằng, hầu hết cán bộ xã, phường, nhất là cấp phó của mặt trận và các đoàn thể có tiền lương và phụ cấp không đủ tiền xăng xe đi lại phục vụ công tác. Trong khi khối lượng công việc hằng ngày họ phải chịu trách nhiệm thực hiện là không nhỏ. Có không ít trường hợp, do đảm nhận cùng lúc nhiều việc cho nên người cán bộ xã, phường, thị trấn chỉ có thể làm được một vài công việc cấp bách, còn những việc khác đành để lại "khi nào có thời gian thì làm" hoặc triển khai theo kiểu "đối phó".

Những bất cập trong chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn ở những vùng khó khăn như nêu trên đã khiến không ít cán bộ không chuyên tâm làm việc, thậm chí sao nhãng việc cơ quan, tập trung làm những việc bên ngoài để lo cho cuộc sống bản thân và gia đình. Ðiều này dẫn đến việc chất lượng công tác chưa bảo đảm, cán bộ không yên tâm gắn bó và không thật sự tâm huyết với nhiệm vụ được giao. Thực trạng này phần nào ảnh hưởng đến đời sống của người dân ở các địa phương, ảnh hưởng trực tiếp kết quả  triển khai thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Ðảng, Nhà nước. Bên cạnh đó, việc không chuyên tâm vào công việc cũng ảnh hưởng tiêu cực chất lượng, uy tín đội ngũ cán bộ cơ sở, gây mất lòng tin của nhân dân,...

Ðể góp phần giúp đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn chuyên tâm với công việc, các cơ quan chức năng cần khẩn trương nghiên cứu thực tế, từ đó đề xuất với Nhà nước kịp thời ban hành, sửa đổi, bổ sung những chính sách đãi ngộ thiết thực, phù hợp và hiệu quả hơn nữa. Qua đó, xây dựng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn vững mạnh, gắn bó với nhân dân, với cơ sở.



File đính kèm