Điểm tin báo chí sáng ngày 05 tháng 4 năm 2010

05/04/2010
Trong buổi sáng ngày 05/4/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Theo trang web Chính phủ, đến Hua Hin (Thái Lan) dự Hội nghị cấp cao Ủy hội sông Mekong, chiều 4-4, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã hội kiến với thủ tướng Thái Lan, gặp thủ tướng Lào và tiếp phó chủ tịch Ngân hàng Thế giới.
Thủ tướng Thái Lan Abhisit Vejjajiva khẳng định ủng hộ Việt Nam trong Năm Chủ tịch ASEAN 2010 và Thái Lan sẽ tổ chức nhiều hoạt động tham dự kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội. Hai thủ tướng đã nhất trí việc kết nối hành lang Đông Tây từ Mục Đa Hẳn (Thái Lan) đi Việt Nam.  Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đề nghị với Thủ tướng Lào Bouasone Bouphavanh tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp Việt Nam. Hai bên khẳng định năm 2010 là năm diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của hai nước.
Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB) James Adam thông báo WB đã thông qua khoản vay ưu đãi 500 triệu USD nhằm cải cách đầu tư công ở Việt Nam và sẽ hỗ trợ Việt Nam đối phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
2. Báo Hà Nội mới phản ánh: Ngày 4-4, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Thời báo Kinh tế Việt Nam và Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công thương) đã tổ chức lễ trao Giải "Thương hiệu mạnh Việt Nam" năm 2009.
120 doanh nghiệp tiêu biểu, thỏa mãn một số tiêu chí như: có thương hiệu mạnh, giàu uy tín, hoạt động ổn định và có doanh thu tăng trưởng cao, chất lượng nguồn nhân lực cao đã được tôn vinh và trao cúp. Lễ trao giải thưởng quy tụ những nhãn hàng, thương hiệu nổi tiếng trong nước, như: Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Tổng Công ty Thương mại Hà Nội, Công ty Lioa, Công ty May Việt Tiến...
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Tính đến nay, Nghị định 88/2009 quy định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở (gọi tắt là giấy hồng mới) đã được triển khai khoảng bốn tháng. Nhiều bất ổn xung quanh việc cấp giấy mới từng được báo chí dự báo trước khi nghị định này có hiệu lực thi hành giờ đã trở thành hiện thực.Theo quy định trước đây, sau khi công chứng, trước bạ xong, những người mua nhà, đất chỉ cần nộp hồ sơ đăng bộ và chờ bảy ngày là có kết quả. Nhưng nay Nghị định 88 yêu cầu tất cả người nhận chuyển nhượng nhà phải nộp hồ sơ cấp giấy hồng mới. Đáng nói là có nhiều trường hợp bị quay mòng mòng với những thủ tục, quy trình tựa như lần đầu đi làm giấy.
Tháng 11-2009, ông C. mua căn nhà ở đường Cửu Long, quận Tân Bình, TP.HCM. Nhà này đã có giấy hồng cấp theo Nghị định 60/1994. Để được quận nhận hồ sơ, ông C. phải đi đo vẽ lại, mất hơn 2 triệu đồng và cả tháng trời lên xuống, chờ đợi, đồng thời ông phải đợi phường thực hiện niêm yết trong 15 ngày. Tuy được quận ra giấy hồng mới đúng hẹn nhưng tính ra ông đã mất hơn ba tháng trời.Tương tự, sau khi vợ mất, ông G. (và các đồng thừa kế khác) cũng phải tốn công đi đo vẽ lại để làm hồ sơ nhận thừa kế và cấp giấy hồng mới cho căn nhà ở đường 47, phường Tân Quy, quận 7. So với ông C. thì ông G. may mắn hơn do không phải chờ phường niêm yết. Song ông cũng mất hơn hai tháng mới có kết quả chứ đâu ít.
Cứ tưởng do các giấy hồng của Nghị định 60/1994 hoặc các loại giấy tờ hợp lệ khác (thường gọi là giấy trắng) quá cũ nên dân mới trầy vi tróc vẩy nhưng không phải. Cuối năm 2009, bà T. mua một căn nhà ở cư xá Ụ Tàu, đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 25, quận Bình Thạnh. Nhà này vừa được cấp giấy hồng theo Nghị định 90/2006 (tức theo Quyết định 54/2007 của UBND TP.HCM) nên bà T. đinh ninh sẽ được quận giải quyết ngay. Ai dè quận bảo bà phải nộp đơn xin cấp giấy mới kèm xác nhận của phường. Rồi bà phải đợi sau 15 ngày để phường niêm yết thì bà mới nộp được hồ sơ và phải 15 ngày sau bà mới nhận được giấy hồng. Tính sơ sơ bà T. mất hơn một tháng.Ngay với giấy hồng cấp theo Nghị định 88/2009 thì người dân cũng phải đợi khoảng 15 ngày (lắm khi trễ hơn) mới có giấy. Nhiều thiệt hại đã phát sinh do họ không được cấp giấy kịp thời.
Đâu phải chỉ người dân, các quận, huyện đảm nhận việc cấp giấy hồng cũng “xẩu mình” với giấy mới. Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, ông Nguyễn Ngọc Sáng, Phó Giám đốc Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất quận 2, nói: “Quy định cấp giấy hồng mới sau mỗi lần chuyển nhượng nhà, đất gây lãng phí vì có nhiều trường hợp nhà, đất thay đổi chủ sử dụng liên tục. Cứ mỗi lần đổi chủ là lại tòi ra cái giấy mới!”. Theo ông Sáng, nếu trước đây chỉ mất khoảng bảy ngày là hoàn tất thủ tục đăng bộ cập nhật biến động trên giấy hồng thì nay ít nhất cũng phải mất đến 15 ngày. Nếu hồ sơ nào gặp trục trặc về bản vẽ thì thời hạn sẽ kéo dài hơn.Ông Đặng Minh Nguyên, Phó phòng Tài nguyên và Môi trường quận Bình Thạnh, cũng đồng tình: “Mỗi lần chuyển nhượng phải cấp lại giấy mới gây lãng phí và tốn thêm thời gian không đáng. Việc kéo dài thời gian cấp giấy này khi gặp phải số lượng hồ sơ lớn sẽ dễ dẫn đến quá tải”.
Ông Nguyễn Đức Hạnh, Chánh văn phòng UBND quận 3, phân tích thêm: Hồ sơ cần bản vẽ mới lại càng phức tạp hơn. Vì các đơn vị đo vẽ thường vẽ sai. Khi phát hiện sai sót, quận buộc vẽ lại thì bị cho là hành dân. “Nếu chúng tôi nhận đo vẽ luôn thì chẳng khác nào vừa đánh trống vừa thổi kèn” - ông Hạnh nói.
Bà Trịnh Thị Phương Châm, Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường quận 1, cho rằng Nghị định 88 có hạn chế trong trường hợp cấp giấy chứng nhận đối với tài sản có nhiều người đồng sở hữu, nghị định này quy định cấp mỗi người một giấy chứng nhận riêng (trước đây cấp chung một giấy chứng nhận cho nhiều người). So với cách làm của Nghị định 88 thì cách làm của Nghị định 60/1994 có nhiều tiện lợi hơn như mẫu đơn khai không nhiều chi tiết; được cập nhật biến động vào trang 3 và 4 giúp cơ quan quản lý và người dân dễ dàng nhận biết sự biến động, thay đổi chủ sử dụng, sở hữu của thửa đất, căn nhà.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Đất Việt có bài Vì sao Trung tâm bán đấu giá Quảng Trị cản trở thi hành án?. Bài báo phản ánh: Mới đây, Trung tâm bán đấu giá tỉnh Quảng Trị không chịu thực hiện bán các tài sản đã kê biên như đã được Cục Thi hành án dân sự tỉnh hợp đồng uỷ quyền cách đây gần một năm.
Ngày 1/4, các doanh nghiệp, cá nhân trên địa bàn Quảng Trị tiếp tục phản ánh bức xúc về việc Trung tâm đấu giá tỉnh Quảng Trị ban hành nội quy bán đấu giá tài sản nhằm hạn chế tối đa người tham gia đấu giá. Trước đó, ngày 8/3, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Quảng Trị phát thông báo số 08 về việc ngày 9/4 sẽ tổ chức bán đấu giá hai tài sản của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Quảng Trị là cửa hàng xăng dầu 30/4 Hải Lăng và cửa hàng xăng dầu 1/5 Vĩnh Linh. Kèm theo thông báo này là bản nội quy bán đấu giá có nội dung: Ngoài các điều kiện về giấy phép kinh doanh xăng dầu, tổ chức, cá nhân khi tham gia đấu giá hai tài sản trên phải "có số tiền nộp thuế Nhà nước năm 2009 là 300 triệu đồng trở lên; tài chính hiện có từ 3 tỷ đồng trở lên bằng bảo lãnh của ngân hàng" (giá khởi điểm của mỗi tài sản lần lượt là 700 triệu đồng và một tỷ đồng).
Ngày 1/4, ông Nguyễn Hữu Bắc, Giám đốc Trung tâm đấu giá, người ký ban hành nội quy nói trên, cho hay: "Vì hai cửa hàng xăng dầu này là tài sản có tính đặc thù nên ban hành nội quy như vậy nhằm hạn chế cò mồi, những người mượn giấy phép tham gia phá giá. Mặt khác, bên phải thi hành án là Công ty CP xuất nhập khẩu Quảng Trị cũng nhất trí ban hành nội quy đó". Nhiều tổ chức, cá nhân có nguyện vọng tham gia đấu giá hai tài sản trên đã "vô cùng ngạc nhiên" là tại sao cả Trung tâm đấu giá tỉnh và bên phải thi hành án cùng thống nhất hạn chế số người tham gia đấu giá, chẳng lẽ họ không muốn thu được nhiều tiền để trả nợ cho Nhà nước? Trong khi đó, lại có nguồn tin cho rằng trong tổng số 30 doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu trên địa bàn chỉ có  hai đơn vị có số tiền nộp thuế năm 2009 trên 300 triệu đồng. Vì vậy, không ít người nghi ngờ rằng có khả năng việc dàn xếp giá đấu chỉ cao hơn giá sàn chút đỉnh là... trong tầm tay của Trung tâm đấu giá và bên phải thi hành án.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Dự án Luật Xử lý vi phạm hành chính: Tư pháp hóa việc xử phạt. Bài báo phản ánh: Ngày 2-4, ban soạn thảo Luật Xử lý vi phạm hành chính đã họp cho ý kiến về một số vấn đề tổ biên tập đang vướng khi xây dựng dự án luật này. Luật này quy định về xử lý vi phạm hành chính, bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính.
Đối với các biện pháp xử lý hành chính, quan điểm thứ nhất cho rằng cần phải “cải cách triệt để” để phù hợp với xu thế cải cách tư pháp cũng như hội nhập quốc tế. Theo đó, việc quyết định đưa một người vào trường giáo dưỡng hay cơ sở giáo dục… sẽ được áp dụng thủ tục tư pháp (tố tụng hành chính). Nhưng nếu theo phương án này thì phải sửa hàng loạt luật có liên quan, trong đó có Luật Tổ chức tòa án, để giao thêm thẩm quyền cho tòa hành chính. Quan điểm thứ hai là vẫn tiến hành theo cách thức như hiện nay nhưng sẽ quy định lại thủ tục cho dân chủ, minh bạch hơn. Chẳng hạn, cho phép luật sư được tham gia vào quá trình này…
Về việc xử phạt, khung hình phạt cao nhất hiện nay là 500 triệu đồng. Quan điểm thứ nhất cho rằng nên sửa theo hướng “cắt khúc”, tức là đến một mức nào đó sẽ chuyển hồ sơ vụ việc sang tòa án quyết định. Các thành viên tổ biên tập đề xuất mức chế tài phạt tiền từ 100 triệu đồng trở lên sẽ do tòa án quyết định. Bên cạnh đó, việc áp dụng hình thức chế tài liên quan đến hạn chế quyền của cá nhân, tổ chức như tạm đình chỉ, tước giấy phép, tước quyền lãnh đạo pháp nhân cũng sẽ giao cho cơ quan tòa án xem xét, quyết định. Trong khi đó, quan điểm khác lại đề xuất vẫn cơ bản kế thừa các quy định hiện hành nhưng sửa theo hướng xây dựng hai thủ tục: phạt vi cảnh theo thủ tục riêng; phạt với số tiền lớn theo thủ tục riêng…
Vụ trưởng Vụ Pháp luật (Văn phòng Quốc hội), ông Đặng Đình Luyến, cho rằng việc “tư pháp hóa” như đề xuất của tổ biên tập về lâu dài là hướng đi đúng. “Quá trình xét đưa một người vào cơ sở giáo dục hay trường giáo dưỡng hiện quá đơn giản, dẫn đến nhiều trường hợp không bảo đảm dân chủ. Có trường hợp vợ chồng xích mích, vợ lợi dụng sự quen biết đẩy luôn ông chồng vào cơ sở giáo dục…” - ông Luyến nói. Tuy nhiên, nếu “cải biến” luôn lại… khó. Đại diện Tòa Hành chính TAND Tối cao đồng tình cho rằng việc cải cách toàn diện vào thời điểm hiện nay là không phù hợp với thực tiễn của ngành tòa án, hơn nữa cũng không phù hợp với Hiến pháp.
Nhiều ý kiến khác cũng lo ngại với điều kiện vật chất, số lượng cũng như năng lực cán bộ ngành tòa án hiện chưa đảm đương được nhiệm vụ này. “Khi còn làm bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình, tôi thấy tòa hành chính ở đó gần như không có việc…” - Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường nói. Tuy nhiên, Bộ trưởng Cường cho rằng nếu chỉ bàn trong phạm vi Hiến pháp 1992 sẽ “bó tay” tổ biên tập, hơn nữa không phù hợp vì dự kiến năm 2012 sẽ sửa Hiến pháp, năm 2011 thì trình dự án luật này. “Cần phải mạnh dạn có đề xuất, kiến nghị” - người đứng đầu Bộ Tư pháp nói. Theo bộ trưởng, khi áp dụng các chế tài hạn chế quyền hay đụng chạm đến tự do thân thể công dân thì tòa phải ra quyết định.
Dự án luật có quy định đáng chú ý tại Điều 51. Theo đó, phương án một nêu trước khi ban hành quyết định áp dụng hình thức xử phạt tạm đình chỉ sản xuất và hoạt động kinh doanh, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, tước quyền lãnh đạo pháp nhân, phạt tiền từ 10 triệu đồng trở lên thì người có thẩm quyền xử phạt phải thông báo cho đối tượng vi phạm về quyền của họ được trình bày. Việc giải trình có thể bằng văn bản hoặc tại cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính… Phương án hai quy định xử lý theo hướng “bán tư pháp” đối với các vụ việc có tính chất nghiêm trọng. Cụ thể, đối với một số hình thức xử phạt liên quan đến hạn chế quyền của cá nhân, tổ chức, phạt tiền số lượng lớn (từ 50 triệu đồng trở lên) thì cơ quan có thẩm quyền thông báo các bên liên quan có mặt để xem xét công khai trước khi ra quyết định xử phạt. Tại phiên xem xét công khai, người tiến hành xác minh và các bên tiến hành tranh luận về các tình tiết liên quan đến vụ vi phạm…
Một chuyên gia (đề nghị không nêu tên) tỏ ý nghi ngại về tính khả thi của quy định này. Thứ nhất, nếu tuân theo thủ tục trên sẽ làm kéo dài thời gian, tăng thêm việc cho người có thẩm quyền xử phạt. Mặt khác, hiện nay đương sự nếu không đồng ý với quyết định xử phạt vi phạm hành chính sẽ được quyền khiếu nại theo Luật Khiếu nại, tố cáo. Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì đương sự có quyền khởi kiện ra tòa.
Báo cũng phản ánh: Sáng 3-4, ba văn phòng công chứng tư đầu tiên của tỉnh Tiền Giang đồng khai trương đi vào hoạt động, gồm Văn phòng công chứng Mỹ Tho (77 Trưng Trắc, TP Mỹ Tho), Văn phòng công chứng Cửu Long (202 Ấp Bắc, TP Mỹ Tho) và Văn phòng công chứng Định Tường (thị trấn Tân Hiệp, huyện Châu Thành). Ngay buổi làm việc đầu tiên, dù là thứ bảy nhưng các văn phòng đã tiếp nhận mỗi nơi 3-7 hợp đồng giao dịch, công chứng… Ông Nguyễn Văn Vĩnh, Giám đốc Sở Tư pháp Tiền Giang, cho biết thực hiện đề án phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh, sắp đến tỉnh sẽ ra mắt thêm bốn văn phòng công chứng tư tại các huyện Cái Bè, Tân Phước, Gò Công Tây và Tân Phú Đông.
3. Báo Tuổi trẻ có bài Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước: đường đã có, liệu có tới nơi?. Bài báo phản ánh: Chỉ còn đúng ba tháng nữa là Luật Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hết hiệu lực theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 (1-7-2010) và theo đúng cam kết WTO. Hơn 1.500 DNNN cần có ngôi nhà mới để sinh sống tiếp. Và mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên cũng như Luật Doanh nghiệp sẽ là chỗ ở mới cho họ. Liệu rằng, các doanh nghiệp có đến được với nơi ở mới và môi trường sống mới có phù hợp với họ không?
Tuần qua, Chính phủ đã chỉ ra con đường để các DNNN đi tới ngôi nhà mới của mình, đó là Nghị định 25/2010/NĐ-CP về chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty TNHH một thành viên và tổ chức quản lý các công ty này. Tuy nhiên, theo quy định của Chính phủ, đến ngày 5/5/2010, nghị định này mới có hiệu lực, tức con đường mới được khánh thành. Như vậy trong chưa đầy hai tháng, hơn 1.500 DNNN sẽ cùng chạy, trên một con đường không mấy bằng phẳng vì có rất nhiều thủ tục phải hoàn tất, để về tới đích là điều khó khả thi. Thế thì những ai đuối sức, vì lý do chủ quan hay khách quan, không về đích kịp sẽ sống như thế nào? Đây là một lo ngại có cơ sở nhưng chưa thấy đặt ra trong văn bản pháp luật nói trên.
Có thể nhận thấy rõ áp lực thời gian đè nặng lên việc chuyển đổi toàn bộ DNNN sang hình thức mới như thế nào. So với nghị định trước đây (Nghị định 95/2006/NĐ-CP), nghị định mới đã mở rộng đối tượng chuyển đổi, có thêm cả công ty nông nghiệp, công ty lâm nghiệp, nông trường, lâm trường quốc doanh. Ngay cả các doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa nhưng chưa triển khai thực hiện hoặc đang thực hiện mà chưa xác định giá trị doanh nghiệp trước ngày 1-7-2010 thì cũng cứ chuyển sang hình thức công ty TNHH một thành viên và sẽ tiếp tục cổ phần hóa sau năm 2010. Hơn nữa, các điều kiện, nguyên tắc xử lý tài sản, tài chính, lao động khi chuyển đổi cũng được quy định theo hướng thuận lợi hơn cho doanh nghiệp. Chẳng hạn, với các doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa đã đề cập ở trên thì không yêu cầu phải thực hiện xử lý tài chính, tài sản, sắp xếp lại lao động, sử dụng đất đai để giảm bớt thời gian, chi phí khi chuyển đổi và phù hợp với nguyên tắc mỗi doanh nghiệp chuyển đổi, cổ phần hóa chỉ được xử lý lao động dôi dư một lần.
Cũng chính áp lực thời gian này mà không ít ý kiến cho rằng việc chuyển đổi chỉ mang tính hình thức, nhằm mục đích thực hiện đúng tiến độ. Quả thực việc chuyển đổi này nhằm đến hai mục tiêu lớn là tạo ra một sân chơi bình đẳng cho mọi doanh nghiệp, không kể thành phần kinh tế, chủ sở hữu, trên cơ sở Luật Doanh nghiệp; và khắc phục tình trạng làm ăn kém hiệu quả của DNNN. Chính vì vậy, việc chuyển đổi phải tạo được sự chuyển biến thực sự trong quản lý, điều hành doanh nghiệp, và vì thế tính hiệu quả và chất lượng của công tác chuyển đổi phải được đặt lên hàng đầu.
Thật ra, khi về chỗ ở mới, DNNN sẽ thực sự tự chủ trong kinh doanh và quyền của công ty cũng được mở rộng như quyền định đoạt tài sản, được quyết định các dự án đầu tư có giá trị dưới 50% tổng giá trị tài sản công ty… Điều quan trọng nữa là, sau khi chuyển đổi, công ty chỉ có một chủ sở hữu cụ thể và chỉ chịu trách nhiệm trước ông chủ này. Như vậy tình trạng “cha chung không ai khóc” ở các DNNN hiện nay sẽ không còn. Tuy nhiên, liệu rằng ai sẽ đảm nhiệm tốt vai trò ông chủ sở hữu tại các công ty TNHH một thành viên này? Theo Điều 3 của Nghị định 25, sẽ có bốn ông chủ tương ứng với từng loại doanh nghiệp (xem bảng). Riêng với các công ty được chuyển đổi từ công ty mẹ của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước quy mô lớn, quan trọng, Chính phủ còn để ngỏ trong việc xác định ông chủ, hoặc là Thủ tướng, hoặc là một tổ chức chuyên trách được Chính phủ phân công. Điều có thể gây thắc mắc ở đây là công ty nhà nước quy mô lớn, quan trọng trong quy định nói trên được xác định theo tiêu chí nào, không thấy nêu cụ thể trong nghị định.
Việc xác định chủ sở hữu nhà nước cho các công ty nhà nước sau khi chuyển đổi như quy định của Nghị định 25 đã dọn dẹp bớt rất nhiều những “ông chủ hờ” ở các DNNN hiện nay. Nhưng có lẽ cách làm này vẫn chưa thực sự đi đến cùng quyết tâm cải cách khu vực DNNN. Sở dĩ nói như vậy là vì trong quá trình chuẩn bị để ban hành các văn bản luật này, nhiều chuyên gia đã đề xuất phương án thành lập một công ty đầu tư tài chính và quản lý vốn đầu tư ở các doanh nghiệp để làm chủ sở hữu các công ty TNHH một thành viên 100% vốn nhà nước. Cách làm này phù hợp với nguyên tắc quản trị doanh nghiệp, tách quản lý hành chính nhà nước ra khỏi quyền kinh doanh của doanh nghiệp, thay cơ chế cơ quan hành chính thực hiện chức năng chủ quản bằng cơ chế của người đầu tư kinh doanh. Thế nhưng, không rõ vì lý do gì mà phương án này đã không được chọn. Cũng có thể lập luận là trong khi chưa có công ty để quản lý tài sản nhà nước như phương án nói trên thì cách chọn ông chủ như quy định của Nghị định 25 là một bước đệm, phù hợp với tình hình thực tế. Nhưng làm như vậy sẽ bộc lộ một số hạn chế là nhiều ông chủ, chẳng hạn như các bộ, hay UBND tỉnh, thành phố, sẽ nghĩ mình chỉ chịu “trách nhiệm tạm thời” khi thực hiện vai trò chủ sở hữu trong một thời hạn chưa được xác định.
Một trong những vấn đề có thể nhìn thấy trước khi thực thi Nghị định 25 là sự thờ ơ, thậm chí là sự phản đối gay gắt, của một số đông người bị tác động của nghị định này, có thể vì động cơ tích cực lẫn không tích cực. Theo như phản ánh của TBKTSG (ra ngày 25-3-2010), nhiều DNNN cho biết họ không quan tâm đến việc chuyển đổi, nếu buộc thì vẫn phải làm. Điều này cũng dễ hiểu bởi họ đang hưởng nhiều lợi thế từ sau khi Luật DNNN được sửa đổi vào năm 2005. Gay gắt hơn, nhiều doanh nghiệp còn không chấp nhận phương án chuyển đổi. Trước khi nghị định này được ban hành, một cuộc thăm dò bỏ túi của một quan chức thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, 5/7 ông giám đốc doanh nghiệp lớn thuộc các tổ chức chính trị - xã hội ở Hà Nội phản đối chủ trương chuyển đổi DNNN thành công ty TNHH một thành viên. Họ phản đối là vì họ lo ngại sẽ không còn nhận được sự đỡ đầu từ cơ quan chủ quản và sự bảo trợ từ nguồn ngân sách nhà nước.
Điều lo ngại kế tiếp khi chuyển đổi hơn 1.500 DNNN sang công ty TNHH một thành viên là thiếu hụt đội ngũ cán bộ quản trị doanh nghiệp phù hợp. Theo Nghị định 25, những người là chủ tịch, thành viên của hội đồng thành viên hoặc chủ tịch công ty của các công ty TNHH một thành viên 100% vốn nhà nước được trao quyền hạn khá rộng, tất nhiên là đi kèm với nghĩa vụ tương ứng. Vì vậy, nguy cơ trao quyền cho người không đủ năng lực không phải không có. Và đây lại là cái chỗ dựa cho những ý kiến phản đối việc cải cách phương thức và cơ chế thực hiện quyền sở hữu nhà nước.
Một thách thức khác là liệu văn hóa và lối làm việc theo chế độ tập thể như lâu nay ở các DNNN có thay đổi kịp để thích nghi với lề lối làm việc mới theo quy định của pháp luật không. Rõ ràng cái kiểu chia quyền cho nhiều người nhưng không có ai quyết và không ai dám chịu trách nhiệm sẽ không còn đất sống trong mô hình công ty TNHH một thành viên. Nhưng bao nhiêu vị lãnh đạo sẽ kịp thay đổi để thích ứng với yêu cầu mới. Cuối cùng, những khó khăn được nêu ra ở phần trên đều có thể được hóa giải, dù là toàn bộ hay chỉ một phần, nếu như Chính phủ thực sự có quyết tâm chính trị phải cải cách và nâng cao hiệu quả của khu vực DNNN; đồng thời việc chỉ đạo thực hiện phải nghiêm khắc, kiên quyết, tránh tình trạng nửa vời, không dứt khoát như tiến trình cổ phần hóa DNNN mấy năm vừa qua.
4. Báo Hà Nội mới phản ánh: Luật sư Lê Thúc Anh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư (LĐLS) Việt Nam cho biết, LĐ đang xây dựng quy chế phối hợp với Bộ Công an về hoạt động của LS trong giai đoạn điều tra.
Theo kế hoạch, dự thảo quy chế sẽ được trình Ban Thường vụ LĐLS cho ý kiến vào kỳ họp tháng 4 này, trước khi thảo luận với Bộ Công an để có thể ban hành trong quý III-2010. Sau đó, LĐLS sẽ làm việc với TAND Tối cao, VKSND Tối cao để xây dựng quy chế phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng này nhằm khắc phục những hạn chế trong hoạt động tác nghiệp của các LS.
Báo cũng có bài Cán bộ tư pháp xã: Vừa làm, vừa run. Bài báo phản ánh: Công bằng mà nói, ngay từ sau khi hợp nhất, ngành tư pháp TP Hà Nội đã nhanh chóng ổn định tổ chức, cơ sở vật chất để bắt tay ngay vào việc. Trong thời gian ngắn, TP đã xem xét ban hành 183 văn bản trên tổng số 279 văn bản đã qua Sở Tư pháp thẩm định, tạo cơ sở pháp lý để các cấp, các ngành chỉ đạo, thực hiện thống nhất. Tuy nhiên, công tác tư pháp của Hà Nội hiện phát triển chưa đồng đều. Có những mảng việc đạt được kết quả đáng khích lệ như kiểm tra và xử lý văn bản… nhưng còn có những lĩnh vực chưa đạt yêu cầu. Đặc biệt, công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật còn yếu.
Trong khi đó, theo Giám đốc Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước TP Hà Nội Bùi Văn Quang, mặc dù năm qua đã có thêm 2 trợ giúp viên pháp lý được bổ nhiệm, nâng tổng số trợ giúp viên pháp lý lên 10 người nhưng số lượng trợ giúp viên pháp lý này vẫn chưa đủ để đáp ứng hoạt động tuyên truyền pháp luật, tham gia tố tụng để bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho các đối tượng. Cán bộ ít là vậy nhưng năm 2010 công tác trợ giúp pháp lý tại Hà Nội sẽ phải đảm nhiệm nhiều việc lớn như tổ chức tuyên truyền pháp luật lưu động ở các cơ sở, đặc biệt là tại các xã nghèo; tiến hành khảo sát nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân tại các vùng sâu, vùng xa; đào tạo nguồn trợ giúp viên; cử trợ giúp viên pháp lý và luật sư là cộng tác viên của trung tâm tham gia đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý; tập huấn nghiệp vụ cho trợ giúp viên, chuyên viên và cộng tác viên…
Thiếu hụt nhân lực không chỉ ở mảng trợ giúp pháp lý. Theo khảo sát của PV Báo Hànộimới, hiện Hà Nội còn 10 quận, huyện có 4 cán bộ tư pháp trở xuống, thậm chí tại các huyện như Ứng Hòa, Ba Vì mới chỉ có 2 người; trong khi đó, đội ngũ chuyên trách này phải đảm nhiệm khoảng 11 đầu việc khác nhau. Tại cấp xã, tình hình còn bi đát hơn khi số cán bộ trình độ trung cấp luật không nhiều. Để tạo sức bật mới cho ngành tư pháp, TP đang chỉ đạo triển khai củng cố đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế và giao Sở Tư pháp tập huấn về chuyên môn để nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ này nhưng để đạt đến sự chuyên nghiệp trong công việc thì chắc còn lâu cán bộ cơ sở mới đáp ứng được. Bởi lẽ, hợp nhất về Hà Nội, mọi giấy tờ và thủ tục đòi hỏi phải chặt chẽ, quy củ hơn nhưng vì thiếu chuyên môn và kinh nghiệm nên nhiều cán bộ ở cấp thôn, xã vẫn vừa làm, vừa… run. Ông Nguyễn Đình Thành, cán bộ tư pháp xã Vân Canh, huyện Hoài Đức kể lại thành tích thuộc loại hy hữu của mình, rằng ông đã phát hiện ra một giấy ủy quyền sử dụng đất giả được đem đến xã chứng thực. Nếu trót lọt, người ta có thể trục lợi được hàng tỷ đồng. Song, ông Thành cũng thừa nhận, việc ông phát hiện giấy tờ giả người ta đem đến xã chứng thực ấy cũng rất tình cờ chứ chẳng phải ông có chuyên môn gì sâu. Bởi, khi đảm nhận công việc này, ông cũng chỉ có vài buổi được đi tập huấn.
Cùng mang nỗi lo giống ông Thành còn rất nhiều cán bộ tư pháp địa phương khác khi công tác chứng thực được chuyển giao về địa phương. Trung bình mỗi ngày, họ phải công chứng cho hàng trăm loại giấy tờ, văn bằng... Để đáp ứng kịp tiến độ, họ chỉ biết làm việc như một cái máy, chẳng có thời gian đâu mà soi xét kỹ. Trong khi đó, công nghệ làm giả giấy tờ hiện nay hết sức tinh vi. Lãnh đạo UBND cấp xã do bận nhiều việc nên việc phân công trực lãnh đạo để ký văn bản chứng thực cũng khó khăn khiến người dân phải đợi lâu. Theo luật gia Lê Hồng Sơn, chính quyền cấp xã như "Nhà nước thu nhỏ", hằng ngày những công chức xã, phường phải giao dịch, xử lý các sự vụ trên mọi lĩnh vực, liên quan đến đời sống dân sinh trên địa bàn. Nếu các bất cập về nhân lực, vật lực không được giải quyết thì e rằng mục tiêu cải cách hành chính trong lĩnh vực tư pháp vẫn còn quá xa.


File đính kèm