I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo CAND có bài Quốc hội sẽ làm rõ tình trạng lạm thu phí giao thông. Bài báo phản ánh: Tại phiên họp UBTV Quốc hội sáng 27/3, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Nguyễn Kim Khoa đề nghị Chính phủ báo cáo Quốc hội về chủ trương thu các loại phí liên quan đến giao thông để có đánh giá tác động tổng thể của quyết định này.
Theo ông Nguyễn Kim Khoa, đây là vấn đề quan trọng, gây bức xúc dư luận cần phải được thảo luận, làm rõ. Cũng tại phiên họp này, Phó Chủ tịch UBTW Mặt trận Tổ quốc Nguyễn Văn Pha phân tích, hiện có nhiều ý kiến trái chiều về việc Bộ GTVT đề xuất việc thu phí giao thông.
Theo đó, MTTQ cũng đã chính thức đề nghị Bộ gửi đề án thu phí cho Mặt trận để tổ chức phản biện. Theo ông Pha, người dân trông chờ rất nhiều vào quyết định của UBTV Quốc hội, của Quốc hội trong vấn đề này. Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước thì cho rằng, phí giao thông đang là vấn đề nóng bỏng và không thể làm theo cách của Bộ GTVT. Ông đề nghị, cá nhân nào đề xuất những chủ trương không hợp lý, sai trái thì phải chịu trách nhiệm, nếu có gì thuộc về sai lầm thì chúng ta phải sửa sai.
Liên quan vấn đề phí giao thông do Bộ GTVT đề xuất, vừa qua nhiều ý kiến cho rằng, việc thu phí này trái với Pháp lệnh Phí và Lệ phí. Trong danh mục phí mà Pháp lệnh đề cập, không hề có phí lưu hành phương tiện cá nhân và phí vào nội đô. Do đó, các chuyên gia luật học cho rằng, chính vì sự trái luật nói trên nên vấn đề này Chính phủ cần trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét
2. Báo Quân đội nhân dân có bài Ủy ban Thường vụ Quốc hội bế mạc phiên họp thứ 6. Bài báo phản ánh: Sáng 28-3, Phiên họp thứ 6, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) khóa XIII đã kết thúc buổi làm việc cuối cùng.
Phát biểu bế mạc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nhắc lại 5 nội dung công việc chính mà UBTVQH đã hoàn thành trong phiên họp. Một trong 5 nội dung ấy là việc cải tiến phương thức làm việc, tiến hành chất vấn tại phiên họp của UBTVQH. Hoạt động chất vấn được nối trực tiếp tới 63 đoàn đại biểu Quốc hội ở 63 tỉnh, thành phố trên cả nước để các đại biểu Quốc hội có thể tham gia đặt câu hỏi. Chương trình chất vấn cũng được truyền hình trực tiếp để nhân dân cả nước giám sát hoạt động của UBTVQH cũng như các cơ quan thuộc Chính phủ. Chủ tịch Quốc hội đề nghị cả Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cũng cần đẩy mạnh giao lưu trực tuyến để lắng nghe, tiếp thu ý kiến của nhân dân.
3. Báo Công lý có bài Đà Nẵng: Kiến nghị thành lập 6 Tòa án sơ thẩm khu vực. Bài báo đưa tin: Sáng 27-3, Đoàn công tác của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp (CCTP) Trung ương do đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, làm Trưởng đoàn đã có buổi làm việc với Ban Thường vụ Thành ủy và Ban chỉ đạo CCTP Tp. Đà Nẵng.
Lãnh đạo Tp. Đà Nẵng kiến nghị Trung ương xem xét cho phép Đà Nẵng thành lập 6 TAND sơ thẩm khu vực và 6 VKSND khu vực tương ứng gồm: khu vực 1 (quận Hải Châu), khu vực 2 (quận Thanh Khê), khu vực 3 (gồm quận Sơn Trà và Ngũ Hành Sơn), khu vực 4 (quận Liên Chiểu), khu vực 5 (quận Cẩm Lệ) và khu vực 6 (huyện Hòa Vang). Ngoài ra, để đảm bảo hoạt động, ngành Tòa án và VKSND Tp. Đà Nẵng kiến nghị Trung ương tăng cường thêm biên chế, đầu tư trang thiết bị, phương tiện, đầu tư xây dựng trụ sở làm việc và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức có chức danh pháp lý nhằm đáp ứng yêu cầu công tác ngày càng cao của các cơ quan tư pháp.
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ghi nhận những ý kiến kiến nghị của Đà Nẵng, ông nhấn mạnh: Việc tổ chức Tòa án sơ thẩm khu vực và VKSND khu vực là vấn đề rất mới, cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề. Chính vì vậy, cần có sự trao đổi với các cơ quan liên quan về xác định TAND và VKSND khu vực, đặc biệt là tìm hiểu tình hình triển khai đề án, những khó khăn vướng mắc để làm sao Trung ương và địa phương có thống nhất xây dựng nền tư pháp trong sạch vững mạnh. Bên cạnh nguồn đầu tư của địa phương, Chính phủ sẽ cân đối ngân sách cho việc đầu tư xây dựng nơi làm việc, đầu tư trang thiết bị phục vụ cho công tác.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Đà Nẵng vẫn “tranh thủ” hạn chế nhập cư. Bài báo phản ánh: Dù nghị quyết có vấn đề nhưng Đà Nẵng vẫn tiếp tục gây tranh cãi khi khẳng định việc hạn chế nhập cư là đúng.
Sáng 28-3, tại cuộc họp báo thường kỳ, ông Văn Hữu Chiến, Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng, cho biết là đã có văn bản gửi Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ để xin ý kiến chỉ đạo, phối hợp với Bộ Công an rà soát việc hạn chế nhập cư tại hai quận trung tâm là Thanh Khê và Hải Châu, theo Nghị quyết 23 của HĐND TP. “TP vẫn cho nhập cư bình thường ở các quận, huyện vùng ngoại ô, chỉ tạm dừng đăng ký thường trú mới với một số trường hợp không phù hợp ở khu vực trung tâm, nơi có mật độ dân cư cao để quản lý tốt hơn” - ông Chiến nói.
Dù Đà Nẵng chưa ban hành văn bản chỉ đạo cụ thể về việc đăng ký thường trú mới tại hai quận Thanh Khê và Hải Châu nhưng đã có người không được nhập hộ khẩu theo chủ trương “tạm dừng” nêu trên.
2. Báo Công lý Online có bài Vụ “không chấp hành án” ở Kiên Giang: Xử lý có đúng pháp luật? Bài báo phản ánh: Vợ chồng bà Nguyễn Thị Diệu, ông Lê Văn Có cư trú ở tổ 2, khu phố Xà Ngách, thị trấn Kiên Lương, huyện Kiên Lương có thế chấp cho bà Dương Thị Ngọc Minh và bà Nguyễn Thị Lệ Thu một “sổ đỏ” đứng tên Nguyễn Văn Nam có diện tích hơn 30.000m2 đất tọa lạc tại ấp Ba Núi, xã Bình An, huyện Kiên Lương để vay của bà Minh 59 triệu đồng và vay của bà Thu 75 triệu đồng.
Ông Có, bà Diệu trả lãi cho bà Thu được hơn 25 triệu đồng thì không còn khả năng. Hai bên kết sổ, ông Có, bà Diệu nợ bà Thu gần 130 triệu đồng. Tương tự, họ trả lãi cho bà Minh được 52,6 triệu đồng thì kết sổ là ông Có, bà Diệu nợ bà Minh 59 triệu đồng. Bà Thu và bà Minh kiện vợ chồng bà Diệu, ông Có ra Tòa án.
Ngày 19-2-2009, TAND huyện Kiên Lương đã ban hành Quyết định khẩn cấp tạm thời số 02 đối với tài sản thế chấp. Ngày 3-3-2009, THA huyện Kiên Lương ra Quyết định số 451 áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: “Phong tỏa tài sản là giá trị 5/6 diện tích đất “sổ đỏ” thế chấp mang tên ông Nam”.
Về nguồn gốc đất thế chấp này, tại các phiên tòa, ông Nam cũng thừa nhận là đã sang nhượng đất trên cho ông Có, bà Diệu với giá 60 triệu đồng. Ông Có, bà Diệu đã trả được 50 triệu đồng, còn 10 triệu đồng chưa trả. Bản án số 91 ngày 22-4-2009, TAND tỉnh Kiên Giang tuyên buộc ông Có, bà Diệu có nghĩa vụ trả nợ cho bà Thu số tiền hơn 141 triệu đồng và cho bà Minh hơn 63 triệu đồng. Sau khi ông Có, bà Diệu trả xong số nợ thì bà Thu, bà Minh có nghĩa vụ giao trả lại “sổ đỏ” đứng tên ông Nam cho ông Có, bà Diệu. Riêng số tiền 10 triệu đồng chuyển nhượng đất, nếu có tranh chấp giữa ông Nam với ông Có, bà Diệu thì tách thành vụ kiện khác.
Trước đó tại các tại các phiên hòa giải, bà Diệu, ông Có đề nghị các nguyên đơn “giải chấp” sổ đỏ đứng tên ông Nam để sang nhượng cho người khác lấy tiền trả nợ cho họ. Thế nhưng, đề nghị này không được chấp nhận. Do đó, sau khi Bản án số 91 có hiệu lực pháp luật, ông Có, bà Diệu tiếp tục đề nghị THA huyện Kiên Lương xử lý tài sản thế chấp để THA.
Bất ngờ, THA huyện Kiên Lương ban hành Quyết định số 31 ngày 24-7-2009 kê biên tài sản của ông Có, bà Diệu để đảm bảo THA diện tích đất 29.989m2 (loại đất nuôi trồng thủy sản) tọa lạc tại khu phố Xà Ngách, thị trấn Kiên Lương, huyện Kiên Lương do ông Có đứng tên.
Ngày 7-8-2009, THA huyện Kiên Lương lập biên bản kê biên tài sản theo Quyết định số 31 ngày 24-7-2009 của THA huyện Kiên Lương. Tại biên bản kê biên, bà Diệu đề nghị THA huyện Kiên Lương xử lý tài sản thế chấp đã bị phong tỏa để THA theo Bản án 91 đã tuyên, đồng thời thông báo cho cơ quan THA biết đất ông Có đang đứng tên giùm cho bà Phạm Thị Hai. Tuy nhiên, đề nghị này, một lần nữa không được cơ quan THA xem xét. Thậm chí, THA huyện Kiên Lương còn kê biên luôn căn nhà duy nhất của gia đình ông Có đang sinh sống(!?).
Ngày 7-9-2009, THA huyện Kiên Lương có văn bản ủy quyền cho Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản Kiên Giang bán tài sản trên. Ngày 4-2-2010, nhà đất của ông Có, bà Diệu bán được hơn 200 triệu đồng. THA huyện Kiên Lương đã yêu cầu ông Có, bà Diệu giao tài sản cho người trúng đấu giá.
Vì lý do gia đình chỉ có chỗ ở duy nhất là căn nhà đã bị phát mãi nên ông Có, bà Diệu không thể giao. Do vậy, ngày 14-6-2010, THA huyện Kiên Lương ra Quyết định số 21 cưỡng chế buộc giao nhà và đất. Ngày 24-6-2010, Hội đồng cưỡng chế tiến hành cưỡng chế dọn đồ đạc của gia đình ông Có, bà Diệu ra khỏi nhà và giao nhà và đất cho người trúng đấu giá. Do trời mưa không có chỗ ở, bà Diệu, ông Có đã dọn đồ đạc vào nhà của mình để ở.
Việc ông Có, bà Diệu dọn đồ vào nhà của mình sinh sống lập tức bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Kiên Lương khởi tố vụ án hình sự số 19 ngày 21-3-2011 và khởi tố bị can đối với bà Diệu, ông Có, tiến hành bắt tạm giam bà Diệu có hành vi không chấp hành án, vi phạm Điều 304 BLHS. Một điều tréo ngoe là khi ký Quyết định số 07 ngày 7-6-2011 về việc gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với bà Diệu, ông Phạm Thanh Sơn, Phó Viện trưởng VKSND huyện Kiên Lương lại xác định bà Diệu phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 138 BLHS(!?).
Khoản 1 Điều 95 Luật THA quy định: “Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải THA và gia đình chỉ được thực hiện sau khi xác định người đó không có các tài sản khác hoặc có nhưng không đủ để THA, trừ trường hợp người phải THA đồng ý kê biên nhà ở để THA”. Ông Có, bà Diệu nhiều lần đề nghị THA huyện Kiên Lương xử lý tài sản thế chấp theo Bản án số 91 ngày 22-4-2009 của TAND tỉnh Kiên Giang đã tuyên để THA. Tuy nhiên, THA huyện Kiên Lương đã cố tình không thực hiện.
Theo khoản 1 Điều 95 Luật THA, việc THA huyện Kiên Lương kê biên căn nhà của gia đình ông Có, bà Diệu là thiếu căn cứ pháp luật. Việc bà Diệu, ông Có dọn đồ vào nhà mình ở lại bị xử lý hình sự về tội “Không chấp hành án” theo Điều 304 BLHS, liệu có đúng quy định pháp luật hay không? Câu trả lời này xin nhường lại cho cơ quan có thẩm quyền.
3. Báo Pháp luật & Xã hội có bài "Choáng" với hành vi “khai tử” người còn sống để chiếm tài sản. Bài báo phản ánh: Theo hồ sơ tài liệu ông T. cung cấp, ông bà ngoại của ông đã mất, mẹ của ông là bà Nguyễn Thị Ngọc cũng đã qua đời vào năm 1992. Những người này có để lại ba căn nhà ở phường 14, quận 6 nhưng không để lại di chúc.
Để đạt được ý đồ của mình, không ít người đã sử dụng cả những thủ đoạn gian dối rất tinh vi. Cùng với hàng loạt các loại giấy tờ có giá bị làm giả khác, các loại giấy tờ xác định nhân thân một người như giấy khai sinh, đăng ký kết hôn… cũng bị giả mạo không ít. Và mới đây nhất, các cơ quan báo chí đưa tin hai vụ làm giả giấy chứng tử rất đáng quan tâm.
Theo một tờ báo, năm 2010, ông T. (trú tại phường 14, quận 6, TP.HCM) đến Phòng Công chứng số 7 TP. HCM để làm thủ tục khai nhận và phân chia di sản thừa kế. Theo hồ sơ tài liệu ông T. cung cấp, ông bà ngoại của ông đã mất, mẹ của ông là bà Nguyễn Thị Ngọc cũng đã qua đời vào năm 1992. Những người này có để lại ba căn nhà ở phường 14, quận 6 nhưng không để lại di chúc. Ngoài người dì ruột thì còn có ông là con trai duy nhất của mẹ ông cùng được hưởng di sản nhưng người dì đã đồng ý tặng cho toàn bộ phần của bà cho ông T. Căn cứ vào đó, Phòng Công chứng số 7 đã công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản để ông T. được hưởng thừa kế cả ba căn nhà. Sau đó, ông T. đã làm thủ tục đứng tên nhà và chuyển nhượng lại cho người khác.
"Âm mưu" của người con trai đến gần đây mới bị bà mẹ phát hiện và gửi đơn tố giác đến CQCA. Trong hồ sơ công chứng, ông T. nộp bản sao giấy chứng tử mang tên bà Ngọc do UBND phường 14, quận 6, TP HCM cấp vào ngày 8-7-2010, ghi thời gian chết của bà Ngọc là ngày 26-2-1992. Tuy nhiên, UBND phường 14, quận 6 khẳng định mình không hề cấp bản chính cũng như bản sao giấy chứng tử mang tên bà Ngọc. Vào ngày 8-7-2010, UBND phường 14 có cấp bản sao giấy chứng tử cho ông Nguyễn Văn Sớm, chết ngày 26-2-1992 và Giấy chứng tử giả của bà Ngọc có nhiều điểm trùng với giấy chứng tử thật của ông Sớm: Trùng ngày tháng năm chết, có cùng số chứng tử và cùng số quyển, mà đúng qui định thì không bao giờ có việc giấy chứng tử lại trùng số, trùng quyển nên đã gửi văn bản đề nghị CQĐT làm rõ vì sao ông T. lại có giấy chứng tử mang tên bà Ngọc.
Không những khai tử mẹ, ông T. còn cố tình gạt anh em ruột của mình ra khỏi danh sách những người được hưởng thừa kế. Bà Ngọc có ba người con nhưng trong tờ tường trình về quan hệ nhân thân, ông T. khai mình là con trai duy nhất và tờ tường trình này được UBND phường 12, quận 6 (không phải nơi ông T. đăng ký thường trú) chứng thực chữ ký vào ngày 9-9-2010. Trong tờ tường trình khác về mối quan hệ nhân thân giữa cháu và ông bà ngoại, ông T. khai ông bà ngoại mình có bảy người con, trong đó mẹ ông T. có ông là con duy nhất, còn lại ai cũng độc thân và đã chết, trừ một người dì còn sống (nhưng người này thỏa thuận tặng cho phần thừa kế của mình cho ông T.). Thế nhưng, trên thực tế, các dì của ông T. có người lập gia đình, có con và con của họ vẫn đang còn sống. Nghĩa là ngoài ông T., ông bà ngoại ông còn có nhiều cháu ngoại khác và những người này cũng có quyền hưởng di sản thừa kế như ông T…
Về phía Phòng Công chứng số 7 TP HCM, do đã tiến hành niêm yết 30 ngày tại UBND phường 14, quận 6, nhưng không có khiếu nại gì, hết thời hạn này đã công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản. Việc này là đúng trình tự, thủ tục nên những người có quyền lợi liên quan chỉ còn cách kiện ra tòa để yêu cầu tuyên hủy văn bản thỏa thuận này.