Tổng hợp các quy định mới của Luật Hộ tịch, Luật Căn cước công dân và Luật Bảo hiểm xã hội

10/12/2014
Ngày 20/11, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIII kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Hộ tịch, Luật Căn cước công dân và Luật Bảo hiểm xã hội với nhiều điểm mới tích cực.

Luật Hộ tịch - đăng ký sự kiện hộ tịch có yếu tố nước ngoài giao về cho UBND cấp huyện

Luật Hộ tịch gồm 7 chương và 77 điều, quy định nguyên tắc, nội dung, thẩm quyền, thủ tục đăng ký hộ tịch; quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức trong đăng ký hộ tịch; sổ bộ hộ tịch, sổ hộ tịch cá nhân, cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quản lý hộ tịch.

Luật Hộ tịch phân định rõ thẩm quyền đăng ký hộ tịch, theo đó khoản 1 Điều 7 của Luật quy định UBND cấp xã đăng ký hộ tịch trong các trường hợp:

1) Đăng ký sự kiện hộ tịch về: khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; khai tử cho công dân Việt Nam cư trú ở trong nước. 2) Đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch cho người chưa đủ 14 tuổi; bổ sung thông tin hộ tịch cho công dân Việt Nam cư trú ở trong nước. 3) Thực hiện các việc hộ tịch về thay đổi quốc tịch; xác định cha, mẹ, con; xác định lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; công nhận giám hộ; tuyên bố hoặc hủy tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự; xác định hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định của pháp luật. 4) Đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thường trú tại khu vực biên giới, còn người kia là công dân của nước láng giềng thường trú tại khu vực biên giới với Việt Nam; kết hôn, nhận cha, mẹ, con của công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới với công dân nước láng giềng thường trú ở khu vực biên giới với Việt Nam; khai tử cho người nước ngoài cư trú ổn định lâu dài tại khu vực biên giới của Việt Nam.

Trước đây, việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền của UBND cấp tỉnh, theo Luật Hộ tịch, vấn đề này được giao về cho UBND cấp huyện thực hiện nhằm cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân, đồng thời để UBND cấp tỉnh tập trung làm tốt chức năng quản lý nhà nước về hộ tịch tại địa phương. Theo đó khoản 2 Điều 7 của Luật quy định UBND cấp huyện đăng ký hộ tịch trong các trường hợp: 1) Đăng ký sự kiện hộ tịch về: khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; khai tử có yếu tố nước ngoài; 2) Đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch cho công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên cư trú ở trong nước; xác định lại dân tộc. 3) Thực hiện các việc hộ tịch về: ghi vào sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài.

Đối với công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài, cơ quan Đại diện sẽ thực hiện các việc hộ tịch.

Một điểm mới quan trọng khác là xây dựng số định danh công dân. Số định danh dùng để truy nguyên cá thể, phân biệt cá nhân này với cá nhân khác. Theo đó, điểm c khoản 1 Điều 14 về nội dung đăng ký khai sinh sẽ bao gồm cả số định danh cá nhân của người được đăng ký khai sinh. Tuy nhiên, để tránh gây xáo trộn, thì chỉ nên cấp số định danh cho công dân Việt Nam khi đăng ký khai sinh theo quy định của Luật mới.

Luật cũng quy định về Sổ hộ tịch và Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử (mục 1 chương VI) nhằm tập hợp và quản lý thống nhất mọi dữ liệu hộ tịch của công dân Việt Nam ở trong nước và nước ngoài. Sổ hộ tịch là nguồn của Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử quốc gia, phục vụ công tác quản lý dân cư, quản lý nhà nước và xã hội theo hướng hiện đại, bảo đảm thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có yêu cầu khai thác sử dụng. Như vậy, khi việc đăng ký khai sinh đã đầy đủ, phù hợp thì công chức tư pháp – hộ tịch sẽ ghi nội dung khai sinh vào Sổ hộ tịch, cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để lấy Số định danh cá nhân (Điều 19). Luật Hộ tịch chỉ quy định mang tính nguyên tắc về việc xây dựng, quản lý và khai thác Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Chính phủ sẽ quy định chi tiết về vấn đề này.

Để tránh gây xáo trộn lớn trong đời sống nhân dân, Luật quy định, các loại sổ hộ tịch từ trước tới nay hiện đang lưu giữ tại Ủy ban nhân dân các cấp và Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài vẫn có giá trị pháp lý và là cơ sở để cấp giấy tờ hộ tịch theo yêu cầu của cá nhân; các giấy tờ hộ tịch của cá nhân được cấp trước ngày Luật có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý để chứng minh sự kiện hộ tịch của cá nhân (Điều 75, 76).

Luật Hộ tịch có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2016./.

Luật Căn cước công dân - cấp Thẻ căn cước công dân cho người từ đủ 14 tuổi.

Luật Căn cước công dân gồm 6 Chương, 39 Điều quy định về căn cước công dân, Cơ sở dữ liệu căn cước công dân và Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; quản lý, sử dụng thẻ Căn cước công dân; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Khi công dân có yêu cầu thì được đổi sang thẻ Căn cước công dân.

Việc sử dụng Thẻ căn cước công dân sẽ dần thay cho Chứng minh nhân dân, bảo đảm phục vụ tốt yêu cầu quản lý dân cư và hội nhập quốc tế; từng bước thực hiện Chính phủ điện tử. dụng đến hết thời hạn theo quy định. Để không gây ảnh hưởng đến các hoạt động của người dân đang sử dụng Chứng minh nhân dân, Điều 38 của Luật quy định khi công dân có yêu cầu thì sẽ được đổi Chứng minh nhân dân sang thẻ Căn cước công dân. Đồng thời, các loại giấy tờ có giá trị pháp lý đã phát hành có sử dụng thông tin từ Chứng minh nhân dân vẫn nguyên hiệu lực pháp luật.

Luật quy định định rõ lộ trình chuyển đổi từ Chứng minh nhân dân sang sử dụng Căn cước công dân, theo đó, các loại biểu mẫu đã phát hành có quy định sử dụng thông tin từ Chứng minh nhân dân được tiếp tục sử dụng đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2019. Địa phương chưa có điều kiện về cơ sở hạ tầng thông tin, vật chất, kỹ thuật và người quản lý căn cước công dân, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu căn cước công dân để triển khai thi hành theo Luật này thì công tác quản lý công dân vẫn thực hiện theo các quy định của pháp luật trước ngày Luật này có hiệu lực; chậm nhất từ ngày 01 tháng 01 năm 2020 phải thực hiện thống nhất theo quy định của Luật này.

Người từ đủ 14 tuổi được cấp thẻ Căn cước công dân

Công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi được cấp thẻ Căn cước công dân, Số thẻ Căn cước công dân chính là số định danh cá nhân. Như vậy, việc cấp giấy khai sinh cho trẻ em dưới 14 tuổi vẫn được thực hiện. Điều này là hoàn toàn phù hợp với quyền được khai sinh của trẻ em, phù hợp với thông lệ quốc tế trong bối cảnh hầu hết các nước đều cấp Giấy khai sinh để chứng minh thông tin khai sinh; phù hợp với bản chất của việc cấp Thẻ căn cước công dân khi các đặc điểm nhận dạng của một cá nhân đã ổn định và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật.

Đổi, cấp lại, thu hồi, tạm giữ và trả lại Thẻ căn cước công dân

Luật quy định cụ thể trường hợp được đổi lại Thẻ Căn cước công dân và trường hợp được cấp lại Thẻ căn cước công dân (Điều 21, 23). Theo đó, những trường hợp được đổi lại thẻ là khi: công dân đủ 25 tuổi, đủ 40 tuổi và đủ 60 tuổi; Thẻ bị hư hỏng không sử dụng được; Thay đổi thông tin về họ, chữ đệm, tên; đặc điểm nhân dạng; xác định lại giới tính, quê quán; có sai sót về thông tin trên thẻ Căn cước công dân và khi công dân có yêu cầu.

Trường hợp được cấp lại Thẻ căn cước công dân là khi: bị mất thẻ Căn cước công dân hoặc được trở lại quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam.

Thẻ Căn cước công dân bị thu hồi (Điều 28) trong trường hợp công dân bị tước quốc tịch, thôi quốc tịch Việt Nam hoặc bị hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.

Thẻ Căn cước công dân bị tạm giữ trong trường hợp: Người đang chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; Người đang bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành án phạt tù. Trong thời gian bị tạm giữ thẻ Căn cước công dân, công dân được cơ quan tạm giữ thẻ Căn cước công dân cho phép sử dụng thẻ Căn cước công dân của mình để thực hiện giao dịch theo quy định của pháp luật.

Công dân được trả lại thẻ Căn cước công dân khi hết thời hạn tạm giữ, tạm giam, chấp hành xong án phạt tù, chấp hành xong quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Công dân có quyền lựa chọn nơi làm thủ tục cấp, đổi, cấp lại Thẻ căn cước công dân

Pháp luật hiện hành chỉ quy định công dân làm thủ tục cấp, đổi, cấp lại giấy tờ về căn cước công dân tại Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu cấp, đổi, cấp lại giấy tờ về căn cước công dân ngày càng tăng của công dân, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi làm thủ tục và góp phần cải cách thủ tục hành chính, Điều 26 của Luật quy định công dân có thể lựa chọn một nơi làm thủ tục cấp, đổi, cấp lại thẻ Căn cước công dân tại: cơ quan quản lý căn cước công dân của Bộ Công an; cơ quan quản lý căn cước công dân của Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cơ quan quản lý căn cước công dân của Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và đơn vị hành chính tương đương; Cơ quan quản lý căn cước công dân có thẩm quyền tổ chức làm thủ tục cấp thẻ Căn cước công dân tại xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị hoặc tại chỗ ở của công dân trong trường hợp cần thiết.

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được quy định tại Nghị định 90/2010/NĐ-CP, đến nay được quy định chính thức trong Luật Căn cước công dân. Luật đã dành hẳn Chương IV để quy định về Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu căn cước công dân, làm rõ mối quan hệ với các cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư nhằm tập hợp các thông tin gốc, cơ bản về công dân, từ đó phát triển Thẻ công dân điện tử để phục vụ hiệu quả cho công dân trong tham gia các giao dịch dân sự và góp phần đắc lực cho hoạt động quản lý của Nhà nước về dân cư. Việc bổ sung quy định Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong Luật cũng nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Đồng thời, là cơ sở để cấp, quản lý số định danh cá nhân, nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính, công khai, minh bạch, thuận lợi cho người dân.

Luật Bảo hiểm xã hội – nhiều thay đổi về chế độ thai sản

Luật Bảo hiểm xã hội có 9 chương với 125 điều quy định về chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội; quyền và trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến bảo hiểm xã hội, tổ chức đại diện tập thể lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động; cơ quan bảo hiểm xã hội; quỹ bảo hiểm xã hội; thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội và quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội.

Lao động nam được hưởng chế độ thai sản khi vợ sinh con

Điều 34 của Luật quy định, lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội khi vợ sinh con được nghỉ 05 ngày làm việc; 07 ngày làm việc khi vợ sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi; Trường hợp vợ sinh đôi thì được nghỉ 10 ngày làm việc, từ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày làm việc; Trường hợp vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật thì được nghỉ 14 ngày làm việc. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được tính trong khoảng thời gian 30 ngày đầu kể từ ngày vợ sinh con.

Ngoài quy định về thời gian lao động nam được nghỉ khi vợ sinh con, Luật còn quy định trường hợp chỉ có mẹ tham gia bảo hiểm xã hội hoặc cả cha và mẹ đều tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của người mẹ.

Trường hợp chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết sau khi sinh con hoặc gặp rủi ro sau khi sinh mà không còn đủ sức khỏe để chăm sóc con theo xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì cha được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.

Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc

Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội bổ sung quy định hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động.

Bổ sung quy định người hoạt động không chuyên trách cấp xã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc có sự hỗ trợ của Nhà nước trong phạm vi hai chế độ hưu trí và tử tuất, trong đó Nhà nước đóng 14%, người lao động đóng 8%.

Điều kiện hưởng lương

Lao động nữ là người hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn tham gia bảo hiểm xã hội khi nghỉ việc mà có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội và đủ 55 tuổi thì được hưởng lương hưu. Thực tế hiện nay, cán bộ nữ ở xã, phường, thị trấn khi đủ 55 tuổi đã có 15 năm đóng bảo hiểm xã hội khó có điều kiện để tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cho đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội để hưởng lương hưu theo quy định. Do vậy Luật quy định về khoảng cách thời gian như trên là hoàn toàn phù hợp.

Mức lương hưu hàng tháng

Từ ngày 01-01-2016 (thời điểm Luật có hiệu lực hi hành) đến trước ngày 01-01-2018, mức lương hưu của người đủ điều kiện theo Luật này được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội được quy định tại Luật này tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm thì được tính thêm 2% đối với nam, 3% đối với nữ, mức tối đa bằng 75%.

Từ ngày 01-01-2018, mức lương hưu của người đủ điều kiện theo Luật này được tính bằng 45% mức bình quân tiền lượng tháng đóng bảo hiểm xã hội được quy định tại Luật này tương ứng với số năm đóng bảo hiểm xã hội như sau: lao động nam nghỉ hưu vào năm 2018 là 16 năm, năm 2019 là 17 năm, năm 2020 là 18 năm, năm 2021 là 19 năm, từ 2020 trở đi là 20 năm; lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi là 15 năm. Sau đó, cứ thêm mỗi năm, người lao động được tính thêm 2%, mức tối đa bằng 75%. Người lao động suy giảm khả năng lao động đủ điều kiện hưởng lương hưu thì mức lương hàng tháng được tính theo  cách tính chung nhưng mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi thì giảm 2%.