Đẩy mạnh việc tham gia vào các thể chế tài chính - tiền tệ - ngân hàng khu vực và quốc tế

22/11/2016
Hiện nay, Việt Nam đang là thành viên của 6 thể chế tài chính – tiền tệ - ngân hàng khu vực và quốc tế là: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư Quốc tế (IIB), Ngân hàng Hợp tác Kinh tế Quốc tế (IBEC) và mới đây nhất là Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) với tư cách thành viên sáng lập. Trong suốt 30 năm đổi mới và phát triển, các thể chế tài chính tiền tệ ngân hàng khu vực và quốc tế đã đồng hành và có nhiều đóng góp lớn.
Trong bối cảnh hiện nay, việc tăng cường tham gia vào các TCTCNHQT vừa là nhu cầu vừa là yêu cầu đối với Việt Nam xuất phát từ nhiều yếu tố. Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án đẩy mạnh việc tham gia vào các thể chế tài chính – tiền tệ - ngân hàng khu vực và quốc tế (gọi tắt là TCTCNHQT).
Từ góc độ quốc tế, thế giới đang chứng kiến xu thế gia tăng toàn cầu hóa, khu vực hóa cũng như sự phụ thuộc ngày càng lớn giữa các nền kinh tế, trong đó, các TCTCNHQT đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề phát triển của toàn cầu, khu vực và mỗi quốc gia. Về phía quốc gia, mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong xóa đói giảm nghèo, phát triển KT - XH, và đã trở thành quốc gia thu nhập trung bình nhưng con đường phát triển phía trước của Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức, rào cản, nút thắt cần phải giải quyết để có thể vượt qua bẫy thu nhập trung bình, củng cố nền tảng KT - XH và đảm bảo phát triển bền vững trong dài hạn. Bên cạnh đó, Chiến lược Phát triển KT - XH giai đoạn 2011 - 2020 đã đề ra nhiều mục tiêu cao, hướng tới hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Điều này đòi hỏi phải tiếp tục huy động được nguồn lực hỗ trợ lớn của các TCTCNHQT nhằm giải quyết được những thách thức và thực hiện thành công những mục tiêu đã đề ra.
Ngoài ra, các TCTCNHQT đang trong quá trình cải cách quản trị điều hành theo hướng nâng cao vai trò, vị thế, tiếng nói của các nền kinh tế mới nổi, trong đó bao gồm cả Việt Nam. Đây là cơ hội lớn ta cần nắm bắt để nâng cao hình ảnh, uy tín đối với cộng đồng quốc tế, hướng tới vai trò trở thành nhà tài trợ cho các TCTCNHQT trong tương lai, đảm bảo quyền và lợi ích của Việt Nam. Đồng thời, Việt Nam đã được thụ hưởng rất lớn từ sự hỗ trợ của các TCTCNHQT trong thời gian qua, do vậy, với những thành công đạt được trong phát triển KT - XH và với vị thế đã có nhiều thay đổi, đã đến lúc Việt Nam cần có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, tham gia sâu hơn cùng với các nước giải quyết các vấn đề chung của khu vực và thế giới.
Tinh thần chỉ đạo mới của Đảng về hội nhập quốc tế từ Đại hội XI của Đảng đã đề ra chủ trương “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” và đã được cụ thể hóa bằng Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế. Để triển khai thực hiện Nghị quyết này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 31/NQ-CP ngày 13/5/2014, với Chương trình hành động nhằm tăng cường tham gia vào các thể chế tài chính, tiền tệ ngân hàng khu vực và quốc tế và coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình hội nhập đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Quan điểm này đã được khẳng định tại Chiến lược Phát triển KT - XH 2011 - 2020 trong đó nhấn mạnh chủ trương hội nhập trong thời kỳ này là: “mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”.
Đề án được xây dựng trên cơ sở: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011 – 2020; Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn 2030; Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 – 2020; Tiếp thu những ý kiến đóng góp và khuyến nghị của các bộ ngành liên quan trong quá trình xây dựng Đề án.
Sau hơn 30 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, đặc biệt là về xóa đói giảm nghèo và các mục tiêu thiên niên kỷ khác, đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Để đạt được kết quả đó, nội lực và nỗ lực trong nước của Chính phủ và nhân dân Việt Nam là yếu tố then chốt, sự hỗ trợ quý báu của các TCTCNHQT và cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đóng vai trò quan trọng. Các TCTCNHQT không chỉ khơi thông nguồn vốn quốc tế, mang đến cho Việt Nam nguồn lực ưu đãi lớn, mà cả các kinh nghiệm, thông lệ và mô hình phát triển quốc tế, tư vấn chính sách cho cải cách cơ cấu, nâng cao năng lực thể chế, phát triển nguồn nhân lực, năng lực cạnh tranh, hoàn thiện môi trường pháp lý, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng (cả phần cứng và phần mềm). Kết quả là đến nay, Việt Nam đã bước đầu tham gia vào Nhóm nước thu nhập trung bình và chuẩn bị bước vào thời kỳ phát triển mới với những cơ hội và thách thức mới.
 Định hướng trong thời gian tới
Mục tiêu phát triển 5 năm tới (2016 - 2020) của Việt Nam là phải phát triển nhanh hơn, bền vững hơn giai đoạn trước với 4 trụ cột: Tăng trưởng kinh tế cao hơn, bền vững hơn, từ 6,5% - 7%/năm trên nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định (so với bình quân gần 6%/năm giai đoạn trước); phát triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo an sinh, phúc lợi xã hội,
cải thiện đời sống người dân, lấy con người là mục tiêu, là trung tâm của sự phát triển; bảo vệ và cải thiện môi trường sống; và bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Do đó, Chính phủ Việt Nam nhất quán thực hiện hiệu quả 03 đột phá chiến lược: (1) Tiếp tục hoàn thiện thể chế, đặc biệt là thể chế kinh tế thị trường và thể chế xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; (2) Phát triển giáo dục - đào tạo, nhất là đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, gắn với ứng dụng khoa học - kỹ thuật tiên tiến, hiện đại; (3) Ban hành chính sách phù hợp trong huy động các nguồn lực, nhất là nguồn lực của xã hội, của tư nhân, nguồn lực trong nước và ngoài nước để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, tiên tiến, hiện đại.
Có thể thấy con đường phát triển phía trước của Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức cũng như nút thắt cần giải quyết để đảm bảo đáp ứng nhu cầu lớn về đầu tư phát triển KT - XH, phát triển bền vững trong dài hạn. Do vậy, Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục đẩy mạnh cải cách, tái cơ cấu nền kinh tế, đặt trọng tâm vào các lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống tài chính ngân hàng, tiến tới áp dụng các chuẩn mực quốc tế. Điều này đòi hỏi ta không chỉ tăng cường năng lực xây dựng và hoạch định chính sách mà còn phải đẩy mạnh thu hút nguồn lực rất lớn trong giai đoạn tới về công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quốc tế cũng như nguồn vốn hỗ trợ lớn từ cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế trong khi tiềm lực và nguồn lực trong nước còn hạn chế, ngân sách đã đạt đến ngưỡng giới hạn cần cảnh báo.
Trong khi đó, xu hướng vốn ODA dành cho Việt Nam đang giảm dần và có thể kết thúc trong một vài năm tới khi các TCTCNHQT đã bắt đầu xem xét về việc đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước vay vốn ODA và chuyển dần sang vay vốn ưu đãi trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình từ năm 2010. Mới đây, IMF đã đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước nghèo thuộc diện vay vốn của Quỹ Tín thác về xóa đói giảm nghèo (PRGT). Bên cạnh đó, điều kiện vay vốn từ các TCTCNHQT khác cho Việt Nam cũng tiến gần đến điều kiện thị trường hơn như nguồn vốn thông thường (OCR) của ADB, nguồn vốn Ngân hàng Tái thiết và Phát triển (IBRD) của WB. Các nhà tài trợ đa phương và song phương khác cũng sẽ bắt đầu thay đổi các điều kiện cho vay đối với Việt Nam, theo đó các nguồn vốn từ các nhà tài trợ sẽ không mang tính ưu đãi như trước đây, giảm dần và tiến tới chấm dứt các nguồn vốn giá rẻ và tăng dần các nguồn vốn theo điều kiện thị trường. Việc này đòi hỏi Việt Nam phải có những điều chỉnh trong cách tiếp cận để huy động nguồn vốn với điều kiện ưu đãi nhất có thể nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư và phát triển KT - XH của mình.
Việt Nam cần tìm kiếm và đa dạng hóa nguồn lực hỗ trợ về tài chính, về công nghệ kỹ thuật để đảm bảo nguồn lực cho nhu cầu và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, đón đầu các cơ hội mới sẽ được mở ra trong tương lai thông qua nhiều khuôn khổ hợp tác. Việc ký kết 14 FTA đa phương và song phương với 55 quốc gia có nền kinh tế phát triển, trong đó có 15 nước G20, thiết lập quan hệ thương mại với hầu hết các quốc gia trên thế giới đã mở ra cơ hội phát triển mới, tạo tiền đề cho đột phá về tăng trưởng sản xuất, chế tạo trong nước, chuẩn bị cho việc gia nhập sâu rộng hơn vào kinh tế thế giới. Việc tăng cường tham gia các TCTCNHQT sẽ có tác động hỗ trợ việc triển khai các Hiệp định thương mại tự do cũng như các khuôn khổ hợp tác khác mà Việt Nam đã tham gia, qua đó giúp nâng cao vị thế và bảo vệ lợi ích của Việt Nam trong các vấn đề quốc tế.
Đẩy mạnh tham gia vào các TCTCNHQT có thể được thực hiện thông qua các công cụ, hình thức hỗ trợ khác của các tổ chức này bên cạnh nguồn vốn ODA, ví dụ như tài trợ dự án, đầu tư vào khu vực tư nhân theo điều kiện thị trường hay các cơ chế giải quyết tranh chấp trong đầu tư của ICSID (Trung tâm giải quyết mâu thuẫn đầu tư), các công cụ bảo lãnh của MIGA (Cơ quan bảo lãnh đầu tư đa biên) của WB. Đây đều là các nguồn lực và cơ chế phòng vệ cần có cho Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế, đầu tư, thương mại với các đối tác quốc tế.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần có các biện pháp chiến lược nhằm tăng cường vị thế tiếng nói, hiện diện của Việt Nam tại các TCTCNHQT để tương xứng và đúng với vai trò và tầm ảnh hưởng của Việt Nam hiện nay và hướng tới trở thành nhà tài trợ trong tương lai. Kinh nghiệm của Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, hay các nước như Thái Lan, Singapore, In-đô-nê-xia, là các nước trong khối ASEAN cho thấy họ đã có những chiến lược và bước chuẩn bị dài để có thể trở thành nhà tài trợ của các TCTCNHQT như hiện nay. Vì vậy, Việt Nam cần nâng cao quyền bỏ phiếu bằng cách tham gia đầy đủ vào các đợt tăng vốn của các TCTCNHQT, đầu tư và chuẩn bị tốt về nguồn lực tài chính, con người và có chiến lược, kế hoạch và lộ trình dài hạn cấp quốc gia về tăng cường đưa người Việt Nam vào các TCTCNHQT. Ngoài ra, Chính phủ cần xây dựng chính sách khuyến khích sinh viên, cán bộ trẻ học tập, làm việc, thực tập nước ngoài, đặc biệt tại các tổ chức quốc tế nhằm phát triển kiến thức, chuyên môn và kinh nghiệm làm việc trong môi trường quốc tế.
Tăng cường tham gia các TCTCNHQT
Hệ thống quản trị kinh tế tài chính toàn cầu đặc biệt là các TCTCNHQT vẫn luôn là các trụ cột quan trọng trong các hoạt động kinh tế, tài chính tiền tệ chủ chốt trên thế giới và có tác động ngày càng sâu rộng đến các nước đang phát triển như Việt Nam. Quá trình đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế của Việt Nam trong gần ba thập kỷ qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần tạo thế và lực mới cho đất nước, là tiền đề quan trọng cho giai đoạn hội nhập toàn diện sau này. Trong giai đoạn tiếp theo, hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính tiền tệ sẽ tiếp tục được tăng cường và phát triển mạnh mẽ hơn.
Các TCTCNHQT hiện nay khá đông đảo và đa dạng xét cả về quy mô lẫn nội dung hoạt động trong phạm vi toàn cầu và khu vực. Chương trình nghị sự của các tổ chức này bao trùm nhiều lĩnh vực trọng yếu của đời sống thế giới, liên kết mọi thành viên trong cộng đồng quốc tế và tạo ra sự kết nối, phụ thuộc lẫn nhau. Việc tham gia và hội nhập sâu rộng vào các thể chế tài chính - tiền tệ - ngân hàng khu vực và quốc tế đã và đang tạo ra nhiều tác động tích cực cho quá trình hội nhập của Việt Nam, kể cả về chính trị, xã hội và kinh tế, tạo ra thời cơ và điều kiện thuận lợi cho phát triển Việt Nam về nhiều mặt,
Tham gia vào các TCTCNHQT sẽ góp phần kích thích tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy sự phát triển sâu rộng của các quan hệ kinh tế tài chính quốc tế, thúc đẩy tự do hóa thương mại, đầu tư, thông tin, lao động... tạo cơ hội cho Việt Nam tận dụng được thị trường thế giới, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất - kinh doanh để phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, trong bối cảnh toàn cầu hóa khi Việt Nam tham gia hiệu quả các định chế, tổ chức kinh tế, tài chính khu vực cũng như toàn cầu sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường vốn và dịch vụ tài chính ngân hàng ở các thể chế và thị trường tài chính của các nước thành viên với điều kiện thuận lợi và giá cả phù hợp để xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế - xã hội.
Tham gia vào các TCTCNHQT tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia tích cực hơn vào các quá trình hợp tác liên kết quốc tế, tham gia thiết lập trật tự kinh tế quốc tế công bằng hơn, hợp lý hơn, thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa và bình đẳng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẽ ngày càng khẳng định vị thế của mình trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay thông qua các diễn đàn tài chính tiền tệ quốc tế. Việc tham gia các tổ chức, định chế khu vực và thế giới sẽ giúp Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách tài chính tiền tệ toàn cầu, có tiếng nói được tôn trọng hơn, có quyền thương lượng và khiếu nại công bằng hơn đối với các tranh chấp trong khuôn khổ tổ chức, định thế quốc tế, do đó có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp.
Mục tiêu của việc  tham gia các TCTCNHQT nhằm: Tìm kiếm và đa dạng hóa các nguồn lực phát triển phù hợp với vị thế là nước có thu nhập trung bình, tăng cường vai trò chủ động và vị thế tham gia của Việt Nam trong quá trình xây dựng hình thành các TCTCNHQT mới, hướng đến trở thành nhà tài trợ; Nâng cao hiệu quả tham gia vào các TCTCNHQT, từng bước nâng cao vai trò và vị thế, tiếng nói của Việt Nam trong các thể chế này cũng như các diễn đàn khu vực, quốc tế có liên quan, tiến tới giữ các vị trí cao trong cơ cấu tổ chức và Văn phòng nhóm ở các tổ chức này; Phát triển năng lực hội nhập quốc tế, xây dựng nguồn lực về con người, kỹ thuật và quản lý đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế nhằm chuẩn bị tốt các nguồn lực để đáp ứng nhu cầu phát triển, từng bước có các vị trí cao hơn trong các TCTCNHQT.
Tăng hiệu quả sử dụng các nguồn hỗ trợ từ các TCTCNHQT
Đề án tập trung các các nhóm nhiệu vụ sau:
Nâng cao hiệu quả tham gia các TCTCNHQT: Tham gia tích cực vào các hoạt động, xây dựng chính sách, sáng kiến, chương trình tăng vốn, cơ cấu lại và cải cách của các tổ chức này nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam tại các TCTCNHQT, tiến tới có được các vị trí chủ chốt như Giám đốc điều hành hoặc Giám đốc điều hành phụ khuyết tại các tổ chức này; Tăng hiệu quả sử dụng các nguồn hỗ trợ từ các TCTCNHQT, đẩy mạnh tư vấn chính sách và tận dụng hợp tác kỹ thuật cho phát triển kinh tế; Có kế hoạch và chiến lược tiếp cận với các nguồn vốn kém ưu đãi, thương mại và khai thác các sản phẩm khác phù hợp với vị thế của Việt Nam là nước có thu nhập trung bình; tăng cường hiệu quả sử dụng các nguồn lực phát triển;
Tiếp cận, tham gia có chọn lọc vào các TCTCNHQT và sáng kiến thiết lập khuôn khổ hợp tác tài chính mới:  Nghiên cứu, tiếp cận và đề xuất tham gia có chọn lọc vào các TCTCNHQT quan trọng trong việc xây dựng khuôn khổ phát triển của khu vực và thế giới nhằm bổ sung nguồn tài chính, nguồn lực phát triển nhằm tăng cường năng lực thể chế và nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; Đẩy mạnh hoạt động hợp tác với các TCTCNHQT khác, kể cả các sáng kiến, diễn đàn, hội nghị, nhóm công tác liên quan cũng như các hoạt động nghiên cứu phát triển, tạo điều kiện để Việt Nam tham gia vào việc xây dựng những thiết chế, khuôn khổ hợp tác quốc tế và khu vực.
Xây dựng và phát triển năng lực hội nhập: Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để áp dụng, triển khai và thực hiện các cam kết, nghĩa vụ của Việt Nam tại các TCTCNHQT; Xây dựng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trình độ, kỹ năng tốt, có khả năng tham gia và có đóng góp tích cực vào hoạt động của các TCTCNHQT nhằm tăng cường sự tham gia, tiếng nói và vị thế của Việt Nam; Nghiên cứu cơ chế, chính sách liên quan để đề xuất lộ trình, mức độ tham gia của Việt Nam với vai trò nhà tài trợ.
Tăng cường công tác quản lý và sử dụng vốn theo hướng đảm bảo an toàn và hiệu quả quản lý nợ công
Tương ứng với ba nhiệm vụ đặt ra ở trên, Đề án đưa ra ba nhóm giải pháp cụ thể như sau:
Tăng cường hiệu quả tham gia các TCTCNHQT mà Việt Nam hiện là thành viên
Tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn hỗ trợ tài chính của các TCTCNHQT: 1. Tích cực phối hợp với các nhà tài trợ xây dựng kế hoạch chuyển tiếp sang nguồn vốn theo điều kiện thị trường dành cho các nước sắp tốt nghiệp các khoản vay ưu đãi nhằm đảm bảo quá trình chuyển đổi thuận lợi, giảm thiểu các khó khăn, rủi ro trong quá trình chuyển tiếp; 2. Xây dựng và triển khai chiến lược, đề án quy hoạch, định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn của các nhà tài trợ quốc tế, bao gồm cả các TCTCNHQT, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam theo từng giai đoạn; 3. Hoàn thiện khung pháp lý theo hướng hài hòa hóa với các quy định của nhà tài trợ, và đơn giản hóa quy trình thủ tục trong quản lý và sử dụng vốn vay, triển khai thêm các mô hình đầu tư mới có sự tham gia của khu vực tư nhân để huy động nguồn lực từ các thành phần khác trong nền kinh tế nhằm tạo ra tác động lan tỏa trong việc huy động nguồn lực của các thành phần này; 4. Tăng cường công tác quản lý và sử dụng vốn theo hướng đảm bảo an toàn và hiệu quả quản lý nợ công; tăng cường hiệu quả công tác lập kế hoạch và sử dụng vốn vay, quản lý và thực hiện các chương trình, dự án; bố trí đầy đủ và kịp thời vốn đối ứng; chuyên môn hóa và chuyên nghiệp hóa mô hình quản lý chương trình, dự án, tăng cường công khai minh bạch, trách nhiệm giải trình và phòng, chống tham nhũng; tăng cường rà soát (định kỳ và đột xuất) để kịp thời xử lý vướng mắc, bất cập phát sinh; 5. Tăng cường khai thác và sử dụng các sản phẩm khác (ngoài vốn vay ODA và vay ưu đãi) từ các TCTCNHQT và đơn vị trực thuộc các tổ chức này nhằm huy động vốn đầu tư trực tiếp, hỗ trợ giải quyết tranh chấp nhằm bảo để có thể tăng cường khả năng tiếp cận với thị trường vốn quốc tế, cải thiện xếp hạng tín dụng quốc gia. 6. Quy hoạch và khai thác nguồn lực từ các kênh đầu tư tư nhân của các TCTCNHQT để tăng cường nguồn lực phát triển KT - XH.
Đẩy mạnh hoạt động tư vấn chính sách: 1. Phát huy tính chủ động và tự chủ trong đối thoại chính sách với các TCTCNHQT về các vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, quản lý kinh tế vĩ mô để tranh thủ sự đồng thuận của các TCTCNHQT đối với các chính sách quản lý, điều hành và các chương trình phát triển KT - XH khác; 2. Cải thiện công tác thống kê, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô và các ngành kinh tế, cung cấp thông tin đầy đủ theo thông lệ và yêu cầu quốc tế của các TCTCNHQT; 3. Phát huy truyền thông chính sách trong nước và thông qua các TCTCNHQT tuyên truyền thông tin về chủ trương, đường lối, chính sách của Chính phủ, Đảng và Nhà nước cho cộng đồng quốc tế, xây dựng hình ảnh quốc gia trong khu vực và quốc tế; 4. Tích cực phối hợp với các TCTCNHQT xây dựng các tài liệu nghiên cứu, phân tích về các diễn biến kinh tế trong nước cũng như trong khu vực và quốc tế cũng như các lĩnh vực chuyên sâu khác để kịp thời nắm bắt các diễn biến và xu hướng trong nước cũng như khu vực và quốc tế, phục vụ cho việc công tác xây dựng chiến lược và hoạch định chính sách.
Tăng cường hỗ trợ kỹ thuật của các TCTCNHQT: 1. Đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ kỹ thuật với các TCTCNHQT trong các lĩnh vực quản lý kinh tế vĩ mô, tài chính công, tiền tệ, tài chính, ngân hàng và các ngành kinh tế khác...; 2. Chủ động lập kế hoạch, triển khai thực hiện và tổ chức giám sát, đánh giá hiệu quả các chương trình hỗ trợ kỹ thuật với các TCTCNHQT; 3. Xây dựng cơ sở dữ liệu về các HTKT với các TCTCNHQT đã triển khai nhằm theo dõi, quản lý có hệ thống, tránh trùng lắp và lãng phí nguồn lực hỗ trợ; tăng cường trao đổi thông tin, báo cáo về HTKT giữa các nhà tài trợ và TCTCNHQT.
Tăng quyền biểu quyết thông qua việc góp vốn kịp thời và đúng theo mức được phân bổ, tham gia tích cực vào hoạt động của các tổ chức này để có vai trò lớn hơn, tiến tới nắm các vị trí chủ chốt, từ đó tăng hiện diện, đưa người Việt Nam vào các TCTCNHQT (cả về số lượng và vị trí công tác);
Thực hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ thành viên, cung cấp thông tin, báo cáo, triển khai đúng và kịp thời các cam kết của Việt Nam, dần áp dụng và triển khai các thông lệ quốc tế tốt nhất cũng như các nguyên tắc và thông lệ khác được các thành viên TCTCNHQT áp dụng rộng rãi;
Tích cực tham gia vào công tác hoạch định chính sách, cơ cấu lại/thay đổi của các TCTCNHQT nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức này theo tiêu chuẩn quốc tế cũng như đảm bảo quyền lợi hội viên của Việt Nam tại các tổ chức này;
Chủ động, tích cực tham gia đề xuất, xây dựng và triển khai các sáng kiến của các TCTCNHQT và các diễn đàn và tổ chức có liên quan theo hướng tăng cường tiếng nói của các nước đang phát triển, tạo ra sân chơi bình đẳng cho mọi quốc gia thành viên;
Tổ chức, tham gia tổ chức các hoạt động nghiên cứu, hội thảo, diễn đàn trong khuôn khổ các hoạt động của TCTCNHQT và các diễn đàn, tổ chức có liên quan của khu vực và quốc tế, qua đó thiết lập và phát triển quan hệ với các cơ quan quản lý các nước, tăng cường kết nối trong khu vực và quốc tế, giúp củng cố quan hệ ngoại giao đa phương.
Tiếp cận, tham gia có chọn lọc vào các TCTCNHQT và sáng kiến thiết lập khuôn khổ hợp tác tài chính mới
Xây dựng kế hoạch và lộ trình tham gia vào các thiết chế của các TCTCNHQT mà Việt Nam đã là thành viên nhằm tận dụng các nguồn lực của các tổ chức này cho phát triển kinh tế;
Kết nối với mạng lưới các hệ thống kinh tế, tài chính toàn cầu thông qua tiếp cận các tổ chức có vai trò quan trọng trong việc thiết lập khuôn khổ và giám sát hoạt động thị trường tài chính quốc tế và tài trợ phát triển: Tham gia có chọn lọc vào một số tổ chức có vai trò quan trọng trong hệ thống tiền tệ, tài chính ngân hàng thế giới; Tiếp cận và tham gia vào các tổ chức tài chính khác có khả năng cung cấp nguồn lực phát triển, đặc biệt là nguồn lực về vốn, để hỗ trợ cho phát triển KT-XH.
Chủ động, tích cực tham gia, đề xuất tham gia vào các hoạt động chương trình hợp tác và sáng kiến trong khuôn khổ đa phương và song phương và các diễn đàn khác để kết nối và phát huy vai trò tại các diễn đàn này, đồng thời tham gia tích cực vào việc thiết lập các khuôn khổ hợp tác về tài chính tiền tệ mới trong khu vực và quốc tế.
Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế
Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để phù hợp với các cam kết, thông lệ quốc tế: Rà soát và điều chỉnh, xây dựng mới luật và các văn bản pháp quy có liên quan để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thành viên về công bố thông tin, báo cáo, thống kê, các chỉ tiêu vĩ mô với các TCTCNHQT và các tổ chức khác phù hợp với cam kết của Việt Nam khi gia nhập, tiến tới áp dụng đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế và thông lệ áp dụng rộng rãi tại các tổ chức này; Xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiếp nhận hỗ trợ như các quy định quản lý nguồn vốn ODA, hỗ trợ kỹ thuật, nguồn vốn có điều kiện thị trường và các văn bản liên quan nhằm cải thiện hiệu quả sử dụng nguồn hỗ trợ từ các TCTCNHQT; Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách để Việt Nam có thể tham gia với vai trò nhà tài trợ.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập: Xây dựng chiến lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực có trình độ quốc tế phù hợp với trình độ cán bộ của các tổ chức quốc tế, trong đó có các TCTCNHQT; Xây dựng cơ chế, ngân sách để cử cán bộ tiềm năng tham gia học tập, công tác, nghiên cứu, thực tập, biệt phái, trao đổi chuyên gia trong khuôn khổ các chương trình hợp tác với các TCTCNHQT và các tổ chức quốc tế khác nhằm nâng cao trình độ, chuyên môn và kinh nghiệm quốc tế; Xây dựng đội ngũ chuyên gia có kiến thức chuyên sâu về kinh tế vĩ mô, tài chính, tiền tệ, ngân hàng, pháp luật, đồng thời có kiến thức về hội nhập quốc tế để đảm nhiệm các vị trí cao trong các tổ chức quốc tế và TCTCNHQT.