Quy định mới của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 về Phục hồi danh dự

08/08/2017
Quyền được phục hồi danh dự là một quyền cơ bản của công dân, Điều 30 Hiến pháp năm 2013 quy định:“Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật” và Điều 31: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật” Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 (sau đây gọi tắt là Luật TNBTCNN năm 2017) đã thể hiện rất rõ quyền Hiến định này[1], với những sửa đổi toàn diện về trình tự, thủ tục khôi phục danh dự cho người bị hại.
Phục hồi danh dự cho người bị thiệt hại là một trong những thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường của Nhà nước, được quy định từ Điều 56 đến Điều 59 Luật TNBTCNN năm 2017. Luật TNBTCNN năm 2017 đã có những quy định cụ thể về đối tượng, hình thức tiến hành phục hồi danh dự, thủ tục, thời hạn cách thức thực hiện tổ chức trực tiếp xin lỗi, cải chính công khai và đăng báo xin lỗi, cải chính công khai
Thứ nhất, về đối tượng phục hồi danh dự: Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sau đây gọi tắt là Luật TNBTCNN năm 2009) quy định: “Người bị thiệt hại quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 26 của Luật này hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu khôi phục danh dự trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật.”
Cụ thể là những người bị hại trong các trường hợp sau:
+ Người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội (khoản 1 Điều 26 Luật TNBTCNN 2009)
+ Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội (khoản 2 Điều 26 Luật TNBTCNN 2009)
+ Người bị xét xử bằng nhiều bản án, Toà án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đó, mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành (khoản 3 Điều 26 Luật TNBTCNN 2009)
          Theo quy định trên, việc phục hồi danh dự chỉ được áp dụng đối với các trường hợp người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng Hình sự. Luật TNBTCNN năm 2017 đã mở rộng đối tượng được phục hồi danh dự, bổ sung thêm các trường hợp sau được phục hồi danh dự, bao gồm: người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự và các trường hợp bị buộc thôi việc trái pháp luật, bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc trái pháp luật (khoản 1, 2 Điều 56 Luật TNBTCNN năm 2017)[2].
Việc mở rộng đối tượng được phục hồi danh dự là rất hợp lý. Trên thực tế, trong các trường hợp bị buộc thôi việc trái pháp luật, bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc trái pháp luật phải chịu rất nhiều hậu quả to lớn, không chỉ về vật chất mà cả tinh thần, do đó việc phục hồi danh dự đối với các đối tượng này là vô cùng cần thiết.
Thứ hai, Luật TNBTCNN năm 2017 sửa đổi, bổ sung quy định về hình thức phục hồi danh dự (Điều 56), trong đó, quy định rõ các hình thức phục hồi danh dự tương ứng với từng đối tượng được bồi thường, cụ thể:
Việc phục hồi danh dự đối với người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng Hình sự được thực hiện bằng các hình thức sau đây:
+ Trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai tại nơi cư trú trong trường hợp người bị thiệt hại là cá nhân hoặc tại nơi đặt trụ sở trong trường hợp người bị thiệt hại là pháp nhân thương mại;
+ Đăng báo xin lỗi và cải chính công khai.
Việc phục hồi danh dự đối với cá nhân là người bị thiệt hại trong trường hợp bị buộc thôi việc trái pháp luật, bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện bằng hình thức đăng báo xin lỗi và cải chính công khai
Luật TNBTCNN năm 2009 cũng có quy định về hình thức thực hiện việc xin lỗi, cải chính công khai. Theo khoản 3 Điều 51 Luật TNBTCNN 2009 quy định:"Việc xin lỗi, cải chính công khai được thực hiện bằng các hình thức sau đây:
+Trực tiếp xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại có sự tham dự của đại diện chính quyền địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú, đại diện của cơ quan nơi người bị thiệt hại làm việc, đại diện của một tổ chức chính trị - xã hội mà người bị thiệt hại là thành viên;
+ Đăng trên một tờ báo trung ương và một tờ báo địa phương trong ba số liên tiếp theo yêu cầu của người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của họ."
Xem xét quy định trên có thể thấy, Luật TNBTCNN năm 2009 mặc dù đã có quy định về hình thức thực hiện xin lỗi, cải chính công khai nhưng chưa thực sự cụ thể. So với quy định cũ, quy định mới đã có những tiến bộ rõ rệt, cụ thể hơn về các hình thức phục hồi danh dự cho người bị hại. Thay vì việc quy định chung chung: “Trực tiếp xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại” Luật mới đã cụ thể hóa từng đối tượng bồi thường, đối với cá nhân và pháp nhân thương mại trong hai lĩnh vực bồi thường: Tố tụng hình sự và đối với người bị thiệt hại trong trường hợp bị buộc thôi việc trái pháp luật, bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.  
Thứ ba, Luật TNBTCNN năm 2017 bổ sung 01 Điều mới quy định về chủ động phục hồi danh dự (Điều 57).
Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật BTNN 2009:“Người bị thiệt hại quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 26 của Luật này hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu khôi phục danh dự trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật.”
 Theo đó, việc khôi phục danh dự được thực hiện theo yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại và được yêu cầu trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật.
Theo cá nhân tác giả, quy định trên chưa thể hiện được hết tinh thần của hoạt động phục hồi danh dự. Trong quá trình dự thảo xây dựng Luật TNBTCNN năm 2017, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Thủy (tỉnh Bắc Kạn) cũng đã có ý kiến về vấn đề này. Theo báo cáo giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trích dẫn điều 34 của Bộ luật Dân sự quy định, cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự thì có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin đó xin lỗi, cải chính công khai.  Báo cáo cho rằng, căn cứ vào quy định nêu trên của Bộ luật Dân sự thì xin lỗi và cải chính công khai là quan hệ dân sự thuộc về quyền nhân thân. Do đó chỉ khi người bị oan có yêu cầu, Nhà nước mới tổ chức xin lỗi công khai. Đại biểu Nguyễn Thị Thủy phát biểu:
"Chúng tôi cho rằng, việc trích dẫn Điều 34 vào đây là chưa phù hợp, bởi vì ở đây không phải là cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự mà là cá nhân bị cơ quan tố tụng làm oan trong quá trình giải quyết vụ án. Do đó, phục hồi danh dự cho người bị oan phải là trách nhiệm công vụ chứ không phải quan hệ dân sự”. Đồng tình với quan điểm trên, Đại biểu Lưu Bình Nhưỡng (tỉnh Bến Tre) cho rằng, chúng ta đang xây dựng một Nhà nước văn minh thì phải cư xử lịch sự. “Bất kỳ ai phạm lỗi với người khác cũng đều phải xin lỗi trước khi bị yêu cầu”, từ đó, Đại biểu khẳng định: Nhà nước phục vụ là Nhà nước phải chủ động thực hiện quyền của người dân chứ không phải đợi đến lúc người dân đòi hỏi.[3]
Có thể thấy, việc chuyển từ quy định phục hồi danh dự theo yêu cầu sang chủ động phục hồi danh dự là vô cùng hợp tình, hợp lý, phát huy đầy đủ quyền Hiến định của người dân trong các trường hợp bồi thường nhà nước.
Luật TNBTCNN năm 2017 đã quy định rất rõ về thời hạn thực hiện: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường hoặc kể từ ngày có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho người bị thiệt hại về việc Nhà nước tổ chức thực hiện phục hồi danh dự.
Luật cũng quy định các trường hợp phát sinh khi người bị thiệt hại đồng ý, không đồng ý với nội dung trong thông báo, người bị hại đề nghị chưa thực hiện phục hồi danh dự, từ chối quyền được phục hồi danh dự và Trường hợp người bị thiệt hại chết (khoản 2, 3, 4, 5 Điều 57)
“2. Trường hợp người bị thiệt hại đồng ý với nội dung trong thông báo thì cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại thực hiện phục hồi danh dự theo quy định tại Điều 58 và Điều 59 của Luật này.
3. Trường hợp người bị thiệt hại không đồng ý với nội dung trong thông báo thì có ý kiến đề nghị cụ thể về nội dung đó để cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại có cơ sở thực hiện phục hồi danh dự.
4. Trường hợp người bị thiệt hại đề nghị chưa thực hiện phục hồi danh dự thì việc phục hồi danh dự được thực hiện khi người bị thiệt hại có yêu cầu bằng văn bản.
5. Trường hợp người bị thiệt hại từ chối quyền được phục hồi danh dự theo quy định của Luật này thì không còn quyền yêu cầu phục hồi danh dự. Việc từ chối phải thể hiện bằng văn bản; trường hợp người bị thiệt hại từ chối quyền được phục hồi danh dự bằng lời nói thì cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại lập biên bản, trong đó ghi rõ việc từ chối quyền được phục hồi danh dự của người bị thiệt hại. Biên bản phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của người bị thiệt hại.
6. Trường hợp người bị thiệt hại chết thì cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại thực hiện việc đăng báo xin lỗi và cải chính công khai theo quy định tại Điều 59 của Luật này.”
Thứ tư, Luật TNBTCNN 2017 bổ sung 01 Điều mới quy định về trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai (Điều 58)
Khoản 2, 3 điều 51 Luật TNBTCNN năm 2009 quy định: “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu bằng văn bản về việc khôi phục danh dự của người bị thiệt hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ, cơ quan có trách nhiệm bồi thường đã thụ lý vụ việc phải thực hiện việc xin lỗi, cải chính công khai”.
Luật TNBTCNN năm 2017 đã sửa đổi toàn diện quy định về trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai, cụ thể như sau:
Thứ nhất, quy định về thời hạn thực hiện là 15 ngày thay cho trước đây là 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản đồng ý hoặc yêu cầu của người bị thiệt hại về việc phục hồi danh dự.
Thứ hai, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại trong việc tổ chức trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai (Thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại có trách nhiệm tổ chức trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai);
Thứ ba, quy định rõ về thành phần tham gia buổi trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai bao gồm đại diện lãnh đạo các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan.
Với những quy định rõ ràng như trên, Luật TNBTCNN năm 2017 đã hướng dẫn cụ thể các cơ quan có trách nhiệm bồi thường thực hiện việc công khai xin lỗi đối với người bị thiệt hại, tạo sự thống nhất về mặt trình tự, thủ tục, cách thức thực hiện đối với các vụ việc bồi thường.
Thứ năm, Luật TNBTCNN năm 2017 bổ sung 01 Điều mới quy định về đăng báo xin lỗi và cải chính công khai (Điều 59). Trong đó, quy định về trách nhiệm của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại trong việc đăng báo xin lỗi và cải chính công khai, đồng thời quy định cụ thể về phương thức thực hiện việc đăng tin trên báo xin lỗi và cải chính công khai.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 51 Luật TNBTNN năm 2009:
3. Việc xin lỗi, cải chính công khai được thực hiện bằng các hình thức sau đây:
a) Trực tiếp xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại có sự tham dự của đại diện chính quyền địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú, đại diện của cơ quan nơi người bị thiệt hại làm việc, đại diện của một tổ chức chính trị - xã hội mà người bị thiệt hại là thành viên;
b) Đăng trên một tờ báo trung ương và một tờ báo địa phương trong ba số liên tiếp theo yêu cầu của người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của họ.
Luật TNBTCNN năm 2009 cũng chưa quy định cụ thể trình tự, thủ tục phục hồi danh dự cho người bị thiệt hại dẫn đến tình trạng việc tổ chức xin lỗi, cải chính công khai qua loa, chiếu lệ, không thống nhất, gây bức xúc cho người bị thiệt hại và dư luận xã hội[4]. Nhằm khắc phục tình trạng trên, nhanh chóng khắc phục một phần tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại[5], Luật TNBTCNN năm 2017 đã có quy định cụ thể và rõ ràng hơn về cách thức thực hiện xin lỗi và cải chính công khai trên báo đối với từng đối tượng và từng trường hợp:
+ Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đồng ý hoặc yêu cầu của người bị thiệt hại về việc phục hồi danh dự quy định tại Điều 41 hoặc Điều 57 của Luật này, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại ở trung ương có trách nhiệm đăng báo xin lỗi và cải chính công khai trên 01 tờ báo trung ương và 01 tờ báo địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú trong trường hợp người bị thiệt hại là cá nhân hoặc nơi đặt trụ sở trong trường hợp người bị thiệt hại là pháp nhân thương mại trong 03 số liên tiếp; đăng tải nội dung xin lỗi và cải chính công khai trên Cổng thông tin điện tử (nếu có) của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại;
+ Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đồng ý hoặc yêu cầu của người bị thiệt hại về việc phục hồi danh dự quy định tại Điều 41 hoặc Điều 57 của Luật này, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại ở địa phương có trách nhiệm đăng báo xin lỗi và cải chính công khai trên 01 tờ báo cấp tỉnh tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú trong trường hợp người bị thiệt hại là cá nhân hoặc nơi đặt trụ sở trong trường hợp người bị thiệt hại là pháp nhân thương mại trong 03 số liên tiếp;
Đặc biệt, so với quy định tại Điều 51 Luật TNBTCNN năm 2009 thì Điều 59 Luật TNBTCNN năm 2017 bổ sung  quy định: Ngay sau khi đăng báo xin lỗi và cải chính công khai, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại có trách nhiệm gửi tờ báo đó tới người bị thiệt hại và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người bị thiệt hại cư trú trong trường hợp người bị thiệt hại là cá nhân hoặc nơi đặt trụ sở trong trường hợp người bị thiệt hại là pháp nhân thương mại để niêm yết công khai tại trụ sở.
Việc sửa đổi bổ sung quy định về phục hồi danh dự tại Luật TNBTCNN năm 2017 thực sự đã khắc phục được những thiếu sót trong Luật TNBTCNN năm 2009 về phục hồi danh dự, góp phần đảm bảo đầy đủ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại trong việc bồi thường Nhà nước.
 
 ThS. Hoàng Thị Thanh Hoa

 

[1] Minh Phương,Phục hồi danh dự cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và đề xuất, kiến nghị, http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/dien-dan-cong-tac-tu-phap.aspx?ItemID=164, ngày truy cập 24/7/2017

[2] Minh Phương, Phục hồi danh dự cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và đề xuất, kiến nghị, http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/dien-dan-cong-tac-tu-phap.aspx?ItemID=164, ngày truy cập 24/7/2017

[3]Bảo Hân, Tổ chức xin lỗi công khai: Chỉ khi người bị oan có yêu cầu, http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Xa-hoi/870190/to-chuc-xin-loi-cong-khai-chi-khi-nguoi-bi-oan-co-yeu-cau, ngày đăng 31/05/2017, ngày truy cập 24/7/2017

[4] Minh Phương, Phục hồi danh dự cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và đề xuất, kiến nghị,http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/dien-dan-cong-tac-tu-phap.aspx?ItemID=164, ngày truy cập 24/7/2017

[5] Báo cáo số 181/BC-BTP ngày 15/7/2016 Tổng kết 6 năm thực hiện Luật TNBT của Nhà nước , mục 3.2