Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính là phạt tiền của thẩm phán chủ tọa phiên tòa, cần được mở rộng

21/04/2015
 

Trước đây để thực hiện quy định tại Điều 172[1] Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988 (sửa đổi, bổ sung năm 1990) về biện pháp đối với người vi phạm trật tự phiên tòa, Thông tư liên tịch số 03/-VKSNDTC-TANDTC-BNV/TTLT ngày 12/4/1990 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Nội vụ được ban hành, để hướng dẫn việc bảo vệ phiên tòa và xử lý những người vi phạm trật tự phiên tòa, mà theo đó, tại mục 1 phần II của Thông tư  này có quy định:

“1. Từ khi khai mạc phiên tòa cho đến khi kết thúc phiên tòa, chủ tọa phiên tòa là người có quyền xử lý đối với những trường hợp gây rối trật tự ở trong khu vực phiên tòa. Tùy từng trường hợp chủ tọa phiên tòa có thể cảnh cáo, phạt tiền, buộc rời khỏi phòng xử án, hoặc ra lệnh bắt giữ người có hành vi gây rối trật tự.

a) Cảnh cáo được áp dụng đối với người vi phạm trật tự phiên tòa ở mức độ nhỏ, như vi phạm nội quy phiên tòa, gây ồn ào hoặc lộn xộn trong phòng xử án, có lời nói hoặc hành vi thiếu tôn trọng người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng.

b) Phạt tiền được áp dụng đối với người vi phạm trật tự phiên tòa ở mức độ lớn hơn, như:

- Có các hành vi được nêu tại điểm a trên đây và đã bị chủ tọa phiên tòa cảnh cáo mà vẫn tiếp tục vi phạm.

- Có hành vi xúc phạm đến người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng.

Mức tiền phạt là từ 1.000 đồng đến 20.000 đồng.

c) Buộc rời khỏi phòng xử án hoặc bắt giữ được áp dụng đối với người vi phạm nghiêm trọng trật tự phiên tòa như đã có các hành vi được nêu tại điểm b trên đây mà xét thấy nếu để họ ở lại trong phòng xử án thì không duy trì được trật tự phiên tòa.

2. Trong những trường hợp buộc rời khỏi phòng xử án hoặc bắt giữ cần lưu ý một số điểm sau đây:

a) Nếu người vi phạm là người tham gia tố tụng (bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự v.v…), thì chủ tọa phiên tòa có thể buộc họ rời phòng xử án một thời gian, khi họ được trở lại phòng xử án thì tuỳ trường hợp, chủ tọa phiên tòa thông báo cho họ biết nội dung của phiên tòa trong thời gian họ vắng mặt. Nếu khi được trở lại phòng xử, mà người đó lại vi phạm trật tự phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa phải buộc họ rời khỏi phòng xử án cho đến khi xử xong hoặc ra lệnh bắt giữ họ.

b) Nếu người vi phạm không phải là bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, thì chủ tọa phiên tòa có thể buộc họ rời khỏi phòng xử trong suốt thời gian xét xử hoặc quyết định bắt giữ.

c) Việc bắt giữ người vi phạm trật tự phiên tòa là bắt để tạm giữ theo thủ tục hành chính; vì vậy, thời hạn giữ không được quá 24 giờ, trừ trường hợp cần thiết có thể kéo dài hơn, nhưng không được quá 24 giờ, kể từ thời điểm giữ người vi phạm. Trong quyết định tạm giữ phải nêu rõ thời hạn tạm giữ là mấy giờ và tính từ lúc nào. Hết thời hạn tạm giữ, cơ quan Công an phải trả tự do cho người bị tạm giữ, trừ trường hợp họ bị giữ theo một quyết định khác.

3. Đối với các trường hợp xử lý bằng hình thức cảnh cáo hoặc buộc rời khỏi phòng xử án thì chủ tọa phiên tòa không phải lập biên bản và không phải ra quyết định bằng văn bản.

Đối với các trường hợp xử lý bằng hình thức phạt tiền hoặc bắt giữ thì chủ tọa phiên tòa phải lập biên bản và ra quyết định bằng văn bản, trừ trường hợp cần ngăn chặn ngay hành vi phạm tội hoặc gây mất trật tự thì có thể ra lệnh bắt giữ trước khi lập biên bản. Đối với các hành vi phạm tội xảy ra tại phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa lập biên bản và đề nghị Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp khởi tố.

Người bị phạt tiền phải nộp tiền phạt cho thư ký phiên tòa để nộp vào quỹ Nhà nước. Nếu họ không thể nộp ngay tại phiên tòa thì sau phiên tòa họ phải nộp cho bộ phận thi hành án của Tòa án.

4. Sau khi kết thúc phiên tòa, Tòa án thông báo quyết định xử lý người vi phạm trật tư phiên tòa cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc và cơ quan Công an cấp quận, huyện nơi người đó cư trú biết.”

Khi BLTTHS năm 2003 được ban hành, mà theo đó, những biện pháp đối với người vi phạm trật tự phiên tòa được quy định tại Điều 198 của Bộ luật này, như sau: “Những người vi phạm trật tự phiên tòa thì tùy trường hợp, có thể bị chủ tọa phiên tòa cảnh cáo, phạt tiền, buộc rời khỏi phòng xử án hoặc bị bắt giữ. Người bảo vệ phiên tòa có nhiệm vụ bảo vệ trật tự phiên tòa và thi hành lệnh của chủ tọa phiên tòa về việc buộc rời khỏi phòng xử án hoặc bắt giữ người gây rối trật tự phiên tòa”.Với một số nội dung của quy định này, như: Trường hợp vi phạm nào thì chủ tọa phiên tòa xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo hoặc với mức độ vi phạm ra sao thì áp dụng biện pháp buộc rời khỏi phòng xử án hay bị bắt giữ…do chưa được quy định cụ thể trong một điều luật riêng và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng chưa kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất áp dụng, nên dù BLTTHS đã có hiệu lực thi hành hơn 10 năm qua nhưng việc xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm trật tự tại phiên tòa nhìn chung rất hạn hữu, dù rằng loại hành vi vi phạm này xảy ra trên phạm vi cả nước không phải là ít. Tuy nhiên, tại Điều 48 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (gọi tắt Luật XLVPHC) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013 quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân dân, như sau:

 “1. Thẩm phán chủ tọa phiên toà có quyền:

a) Phạt cảnh cáo;

b) Phạt tiền đến 1.000.000 đồng;

c) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền phạt được quy định tại điểm b khoản này.

2. Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc phá sản có quyền:

a) Phạt cảnh cáo;

b) Phạt tiền đến 5.000.000 đồng;

c) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền phạt được quy định tại điểm b khoản này;

d) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, i và k khoản 1 Điều 28 của Luật này.

3. Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự khu vực có quyền:

a) Phạt cảnh cáo;

b) Phạt tiền đến 7.500.000 đồng;

c) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền phạt được quy định tại điểm b khoản này.

4. Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Chánh tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Chánh tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao có quyền:

a) Phạt cảnh cáo;

b) Phạt tiền đến mức tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này;

c) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính;

d) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, i và k khoản 1 Điều 28 của Luật này.”

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 Điều 23 Luật XLVPHC: “Mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tiền phạt tối đa của khung tiền phạt.”. Từ những quy định này, có thể thấy:

Thứ nhất, theo quy định tại Điều 5, Mục 1, Chương 2 của Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ (gọi tắt Nghị định số 167/2013/NĐ-CP),  quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình, mà theo đó, tại khoản 3 có quy định: Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: a)…d) Gây rối trật tự tại phiên tòa, nơi thi hành án hoặc có hành vi khác gây trở ngại cho hoạt động xét xử, thi hành án;”. Với những quy định trên, rõ ràng Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không thể ra quyết định xử phạt tiền đối với người có hành vi vi phạm trật tự tại phiên tòa, mà hành vi đó không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ (vi phạm với tính chất bình thường), nếu có xử phạt được đi chăng nữa thì hành vi vi phạm của cá nhân đó phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Như vậy, người có thẩm quyền xử phạt trong nhiều trường hợp phải là Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 48 Luật XLVPHC, chứ không phải là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Từ đó, câu hỏi được đặt ra với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 48 Luật XLVPHC, thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ xử phạt tiền với những trường hợp vi phạm cụ thể nào? Trong khi Điều 198 BLTTHS quy định chủ tọa phiên tòa được phạt tiền đối với hành vi vi phạm trật tự tại phiên tòa; điểm b khoản 1 Điều 48 Luật XLVPHC quy định việc phạt tiền tối đa của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là 1.000.000 đồng; điểm d khoản 3 Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP  cho phép xử phạt tiền với hành vi gây rối trật tự tại phiên tòa từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng, khoản 4 Điều 23 Luật XLVPHC về mức tiền phạt trung bình của khung, phải chăng với trường hợp người có hành vi vi phạm trật tự tại phiên tòa, Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa tiền hành xử phạt tiền đối với hành vi vi phạm đó trong thực tế là điều không tưởng?

Nếu phải so sánh thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội của Trưởng Công an cấp xã với Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa, cùng là hình thức phạt tiền thì nhận xét đầu tiên được rút ra, đó là, thẩm quyền xử phạt của Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa, mà pháp luật dành cho còn quá khiêm tốn. Cụ thể, theo điểm b khoản 3 Điều 39 Luật XLVPHC, Trưởng Công an cấp xã được phạt tiền đến 5% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này nhưng không quá 2.500.000 đồng, trong khi đó Thẩm phán chủ tọa phiên tòa (kể cả Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cấp sơ thẩm, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cấp phúc thẩm) cũng chỉ được phạt tiền đến mức  tối đa 1.000.000 đồng; hoặc với hành vi gây rối hoặc cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức thì Trưởng Công an cấp xã căn cứ vào điểm h, khoản 3 Điều 5 và điểm b khoản 3 Điều 66 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP được quyền xử phạt từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng, nghĩa là với hành vi vi phạm thông thường, không có nhiều tình tiết tăng nặng, Trưởng Công an xã được xử phạt tối đa 2.500.000 đồng về loại hành vi này, trong khi đó với hành vi gây rối trật tự tại phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ xử phạt được nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bởi khung xử phạt tiền đối với hành vi này từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng (điểm d, khoản 3, Điều 5, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP) mà luật chỉ cho phép Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được phạt tiền tối đa 1.000.000 đồng, nghĩa là phải quyết định mức xử phạt tiền dưới khung (dưới khung của 2.000.000 đồng  đến 3.000.000 đồng) (điểm b, khoản 1, Điều 48 Luật XLVPHC).

Thứ hai, thực tế áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là bảo lĩnh theo quy định tại Điều 92 BLTTHS đã nảy sinh tồn tại như sau: Do luật không quy định người bảo lĩnh phải đặt tiền, không quy định cụ thể trách nhiệm của cá nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh khi vi phạm nghĩa vụ cam đoan, nên không phát huy được hiệu lực, hiệu quả của việc áp dụng biện pháp này. Nhiều trường hợp người nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo trốn, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án nhưng chưa có biện pháp xử lý trách nhiệm của cá nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh. Nghiên cứu biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự một số nước thấy rằng, biện pháp bảo lĩnh chỉ áp dụng đối với cá nhân, để bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng đúng thời gian quy định và không cản trở hoạt động tố tụng đối với vụ án đó. Người nhận bảo lĩnh phải đặt một khoản tiền, nếu vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì số tiền đã đặt bị sung công quỹ Nhà nước, tùy theo tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi vi phạm mà người nhận bảo lĩnh có thể bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Khi tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghĩa vụ bảo lĩnh, người tiến hành tố tụng (Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan Điều tra hình sự, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sư, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự, Thẩm phán) thường gặp không ít các vướng mắc. Cụ thể: Khoảng 15 giờ ngày 06/11/2013, khi đang ở nhà thì Phạm Quốc Kh nghe thấy có tiếng người la “bắt thuốc lá lậu” nên dùng xe mô tô chạy đến chỗ lực lượng đang làm nhiệm vụ chống buôn lậu tại ấp 1, xã T.B, huyện H, tỉnh Đ, đến nơi Kh thấy khoảng 9 người gồm công an, Bộ đội Biên phòng, dân quân đã bắt được một số thuốc lá đang để ở lề đường và có một số người dân giật lại số thuốc lá lậu bị thu giữ. Kh liền xông vào giật, xô đẩy và cản trở lực lượng đang làm nhiệm vụ nhằm mục đích tạo điều kiện cho nhiều người khác giật lại số thuốc lá nhập lậu bị bắt giữ, nhưng bị lực lượng đang làm nhiệm vụ đẩy ra. Không giật được thuốc lá, Kh chạy đến hàng rào ven đường gần đó, cầm lấy 01 cành cây (có hai nhánh dài 170 cm, đường kính đoạn lớn nhất 04 cm) xông vào đánh số quân nhân đang canh giữ số thuốc lá, nhưng bị lực lượng này tước cành cây. Kh chạy đến nhà bà Lê Thị T cách chừng hơn 3 mét, đập vỡ cái lu (vại) đựng nước mắm để ở trước nhà, dùng nước mắm tạt vào người số người đang làm nhiệm vụ và ném các mảnh lu vỡ về phía những người này. Ngay sau đó, Kh bị bắt đưa về đồn Biên phòng C và bàn giao cho Cơ quan Điều tra hình sự có thẩm quyền để xử lý. Trên cơ sở xem xét đơn xin bảo lĩnh của chị Nguyễn Thị H và ông Phạm Văn Q (là vợ và bố của bị can Kh) bảo đảm đúng, đủ thủ tục theo quy định của pháp luật, ngày 16/01/2014 VKSND huyện H quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang biện pháp cho bảo lĩnh bị can Kh, sau nhiều lần triệu tập Kh đến làm việc nhưng đều vắng mặt, qua xác minh phát hiện Kh đã bỏ địa phương, đi khỏi nơi cư trú từ ngày 21/02/2014 hiện gia đình đều không rõ Kh đang ở đâu và làm gì. Vấn đề đặt ra từ trường hợp cụ thể này, liệu VKSND huyện H có xử phạt được hành vi vi phạm nghĩa vụ cam đoan của chị Nguyễn Thị H và ông Phạm Văn Q không? Rõ ràng là không. Vì, hiện Luật XLVPHC năm 2012 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền không quy định thẩm quyền của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan Điều tra hình sự, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sư, Kiểm sát viên trong việc xử phạt cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính đối các quy định về việc chấp hành biện pháp ngăn chặn: bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lãnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm hoặc có các hành vi vi phạm các biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của pháp luật, nên với trường hợp mà cá nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ bảo lĩnh của mình ở các giai đoạn điều tra, truy tố và cần phải xử phạt vi phạm hành chính để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, thì các chủ thể vừa nêu không có thẩm quyền xử phạt, mà chỉ có Thẩm phán chủ tọa phiên tòa; Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc phá sản; Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự khu vực; Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Chánh tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Chánh tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao mới được pháp luật trao thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong một số lĩnh vực như đã nêu.

Hơn nữa, theo khoản 4 và khoản 5 Điều 92 BLTTHS quy định cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan, nhưng chịu trách nhiệm như thế nào, chế tài xử phạt ra sao thì luật lại quy định thiếu cụ thể, không bao quát và cũng không có văn bản hướng dẫn chi tiết. Tại điểm b khoản 1 Điều 48 Luật XLVPHC quy định, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền phạt tiền đến 1.000.000 đồng. Trong khi đó, tại khoản 3 Điều 14 của Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, có quy định:Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: a) Vi phạm các quy định về việc chấp hành biện pháp ngăn chặn: bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lãnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm hoặc có các hành vi vi phạm các biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của pháp luật; b)…”

Với quy định này có thể hiểu, nếu người nhận bảo lĩnh mà vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan và cần thiết phải xử phạt vi phạm hành chính, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa được quyền xử phạt tiền mức thấp nhất là 1.000.000 đồng đến mức cao nhất 2.000.000 đồng. Nhưng theo quy định tại khoản 4 Điều 23 Luật XLVPHC, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ có thể quyết định xử phạt tiền với cá nhân có hành vi vi phạm nghĩa vụ bảo lĩnh, theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 14 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP khi và chỉ khi người vi phạm có nhiều tình tiết giảm nhẹ, mà mức xử phạt tiền chỉ từ 1.000.000 đồng trở xuống. Còn với những trường hợp cá nhân nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ của mình mà không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ (mức xử phạt trung bình) hoặc có nhiều tình tiết tăng nặng, thì việc xử phạt vi phạm đó hoàn toàn không thuộc về thẩm quyền của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa (điểm b khoản 1 Điều 48 Luật XLVPHC). Nói tóm lại, việc quy định thẩm quyền xử phạt hành chính với hình thức là phạt tiền với việc ấn định các mức phạt theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 48 Luật XLVPHC; khoản 3 Điều 14 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP là chưa thật sự thông thoáng, chưa mạnh dạn trao quyền này cho họ, trong khi đó, với tư cách là Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa xét xử vụ án hình sự theo thẩm quyền được phân cấp mà BLTTHS quy định, họ có thể tuyên án hình phạt tù có thời hạn đến 20 năm hoặc hình phạt tù không có thời hạn là chung thân hoặc hình phạt đặc biệt khác dành cho người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng là tử hình. Họ có thể áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung theo quy định cụ thể của từng điều luật tại phần các tội phạm cụ thể của BLHS.

 Như vậy, chỉ cần mức phạt tiền từ trên 1.000.000 đồng (điểm b khoản 1 Điều 48 Luật XLVPHC, thì Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa phải báo cáo và đề xuất Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực, Chánh tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh để xem xét ra quyết định xử phạt cho đúng thẩm quyền, qua nghiên cứu người viết thấy rằng đây là sự ràng buộc không cần thiết, cần mạnh dạn tháo gỡ theo hướng trao thêm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hình thức phạt tiền cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, bởi lẽ theo Điều 38 BLTTHS quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, mà theo đó, tại điểm b khoản 1 của điều này có quy định: “Chánh án Tòa án có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

a.Tổ chức công tác xét xử của Tòa án;

b. Quyết định phân công Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm giải quyết, xét xử vụ án hình sự; quyết định phân công Thư ký Tòa án tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự”. Với quy định này, tất cả mọi trường hợp khi phân công Thẩm phán giải quyết, xét xử vụ án hình sự thì Chánh án phải ra quyết định phân công bằng văn bản. Đây là trình tự, thủ tục bắt buộc Luật định, khi có quyết định phân công của Chánh án Tòa án thì kể từ thời điểm đó cho đến khi kết thúc việc giải quyết, xét xử vụ án hình sự đó theo các trình tự pháp luật tố tụng quy định, Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình theo quy định tại khoản 4 Điều 39 BLTTHS, chứ không phải chịu trách nhiệm trước Chánh án – Đây là tính đặc thù của hoạt động tố tụng tại Tòa án.

Từ những phân tích trên, người viết đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu xem xét quy định về thẩm quyền xử phạt tiền của Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa theo hướng ngang bằng thẩm quyền xử phạt tiền với chủ thể là Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực, Chánh tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh như quy định tại khoản 3 Điều 48 Luật XLVPHC là phù hợp với thực tiễn xét xử, đồng bộ với các quy định khác có liên quan đến với nội dung này.

 

Th.S Lê Văn Sua



[1] Điều 172. Những biện pháp đối với người vi phạm trật tự phiên toà.

Những người vi phạm trật tự phiên toà thì tuỳ trường hợp, có thể bị chủ toạ phiên toà cảnh cáo, phạt tiền, buộc rời khỏi phòng xử án hoặc bị bắt giữ.

Cảnh sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ phiên toà và thi hành lệnh của chủ toạ phiên toà về việc buộc rời khỏi phòng xử án hoặc bắt giữ người gây rối trật tự tại phiên toà.