Cơ chế pháp lý bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo quy định của Luật Tiếp công dân

03/02/2015
 

Tiếp công dân là công tác quan trọng trong các hoạt động của Đảng và Nhà nước. Thông qua việc tiếp công dân, Nhà nước tiếp nhận được các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của nhân dân liên quan đến việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật để có các biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời. Khi thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, cơ quan tiếp công dân, cán bộ tiếp công dân thay mặt cơ quan Nhà nước lắng nghe tiếng nói của nhân dân. Thái độ của cán bộ tiếp công dân, của cơ quan tiếp công dân được người dân xem như thái độ của Đảng và Nhà nước đối với yêu cầu của nhân dân. Làm tốt công tác tiếp công dân sẽ góp phần phát huy bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân của Nhà nước ta, củng cố thêm mối quan hệ chặt chẽ, bền vững giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Mặt khác, thông qua công tác tiếp công dân giúp cho Đảng và Nhà nước luôn tiếp nhận được những thông tin phản hồi từ thực tế, những vấn đề nảy sinh từ cuộc sống từ đó đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, hợp lòng dân. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác này, thời gian quan Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản pháp luật về tiếp công dân và tổ chức thực hiện đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc bảo đảm nhân quyền và pháp quyền. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn những hạn chế, bất cập cần tiếp tục được khắc phục, những công việc tiếp tục được triển khai để những văn bản trên của Đảng và Nhà nước thực sự phát huy hiệu lực, hiệu quả và đi vào cuộc sống. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin được trao đổi cùng bạn đọc về những phát hiện mới, quan trọng của cơ chế pháp lý bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân và đưa ra một số kiến nghị biện pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế đó theo quy định của Luật Tiếp công dân năm 2013.

1. Bước phát triển mới, quan trọng về cơ chế pháp lý bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân

Với mục tiêu tạo lập cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo,  các bản Hiến pháp của nước ta từ trước đến nay đều có quy định về nội dung này. Cụ thể quy định của các bản Hiến pháp, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản về công tác tiếp công dân như: Nghị định số 89/CP ngày 07/8/1997 ban hành kèm theo Quy chế tổ chức tiếp công dân; Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo; Quyết định số 858/QĐ-TTg ngày 14/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi mới công tác tiếp công dân; Luật khiếu nại năm 2011, Luật tố cáo năm 2011, Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật khiếu nại, Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật tố cáo ... Tuy nhiên, hệ thống văn bản pháp luật về tiếp công dân còn tản mạn, thiếu thống nhất và chưa được quy định riêng trong một đạo luật, đòi hỏi phải khẩn trương điều chỉnh, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn phát triển mới. Với mục tiêu hoàn thiện pháp luật bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực này, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Luật Tiếp công dân ngày 25/11/2013 và  có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2014. Đạo luật tiếp công dân đầu tiên này gồm 9 chương, 36 điều với nhiều nội dung mới, tiến bộ đã góp thêm mức độ hoàn thiện trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về tiếp công dân nói riêng ở Việt Nam, đồng thời khẳng định một bước phát triển mới, quan trọng về cơ chế pháp lý trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở nước ta, cụ thể như sau:

Thứ nhất, thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Ðảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân và bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của nhân dân.

Ðây là chủ trương lớn, xuyên suốt trong nhiều nghị quyết về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, được thể hiện qua các bản Hiến pháp từ trước tới nay. Tiếp tục nhất quán về chủ trương này, Hiến pháp 2013 đã mở ra không gian rộng lớn nhằm phát huy dân chủ, ghi nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân và đòi hỏi phải được quy phạm hóa bằng những quy định của các đạo luật. Luật Tiếp công dân là một trong rất ít các đạo luật đã kịp thời cụ thể hóa sâu sắc nội dung bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, thể hiện qua tinh thần và toàn bộ nội dung của Luật. Ngay từ việc đưa ra khái niệm tiếp công dân là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm đón tiếp để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật. Luật Tiếp công dân cũng đưa ra nguyên tắc: Việc tiếp công dân phải được tiến hành tại nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo đảm công khai, dân chủ, kịp thời; thủ tục đơn giản, thuận tiện; giữ bí mật và bảo đảm an toàn cho người tố cáo theo quy định của pháp luật; bảo đảm khách quan, bình đẳng, không phân biệt đối xử trong khi tiếp công dân; Tiếp công dân phải tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định của pháp luật. Khi quy định về các quyền của người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại Khoản 1 Điều 7, Luật cũng quy định rõ người dân có quyền được trình bày, được hướng dẫn, được thông báo, được có phiên dịch... Bên cạnh những quy định liên quan đến khiếu nại, tố cáo mà chúng tôi sẽ đề cập trong phần tiếp theo, Khoản 2 Điều 2 của Luật đã giải thích rõ phạm vi và nội dung của kiến nghị, phản ánh, đó là việc “công dân cung cấp thông tin, trình bày ý kiến, nguyện vọng, đề xuất giải pháp với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền về những vấn đề liên quan đến việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, công tác quản lý trong các lĩnh vực đời sống xã hội thuộc trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân đó”. Đây là sự thể hiện sinh động  nhất việc hiện thực hóa tư tưởng của Bác, quan điểm của Đảng về vai trò của nhân dân trong công tác quản lý và thực tiễn cuộc sống xã hội, đó là phương châm “lấy dân làm gốc”, “dân biết, dân làm, dân kiểm tra”... Những quy trên của Luật Tiếp công dân cũng là biểu hiện rõ nét nhất, minh chứng cho bản chất dân chủ của Nhà nước ta; là một bước cụ thể hóa chế định về quyền con người, quyền công dân trongHiến pháp, là cơ sở pháp lý quan trọng và trực tiếp về quyền tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, tham gia quản lý Nhà nước và quản lý xã hội của nhân dân.

Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của người dân được thực hiện có hiệu quả trên thực tế, thể hiện qua các khía cạnh sau đây:

Một là, phải thấy rằng giữa công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời. Do đó, Luật tiếp công dân quy định quyền được trình bày khiếu nại, tố cáo của người dân khi đến nơi tiếp công dân. Đây được coi là một hình thức, một nguồn tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của nhân dân, qua đó đảm bảo thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã được Hiến pháp quy định; thông qua tiếp công dân sẽ giúp công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, đơn vị được tiến hành một cách có trật tự và hiệu quả.

Hai là, Luật Tiếp công dân quy định quyền của người dân tại nơi tiếp công dân được hướng dẫn, giải thích về nội dung khiếu nại, tố cáo. Nội dung này thể hiện rõ yêu cầu mang tính bắt buộc đặt ra đối với các cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức Nhà nước trong quan hệ với nhân dân đó là phải luôn luôn tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Đồng thời điều này cũng là để khắc phục những hạn chế bất cập trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, qua đó, tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức pháp luật nói chung, pháp luật khiếu nại, tố cáo nói riêng đối với quần chúng nhân dân.

Ba là, tiếp công dân là một thủ tục trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo: Tiếp công dân là một thủ tục không thể thiếu được của quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo và là một trong những con đường thiết thực để thực hiện, bảo đảm quyền dân chủ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Trong quá trình giải quyết một vụ việc khiếu nại, tố cáo, việc tiếp công dân xuất hiện không chỉ một lần, ở một thời điểm mà có thể xuất hiện ở nhiều lần và ở nhiều thời điểm khác nhau. Trước hết, việc tiếp công dân được thực hiện ngay từ thời điểm ban đầu khi giải quyết vụ việc. Lúc này việc tiếp công dân của cơ quan có thẩm quyền giải quyết lần đầu nhằm có thể tiếp nhận thông tin để tự điều chỉnh quyết định hành vi của mình. Tiếp công dân của cơ quan có thẩm quyền giải quyết ở những lần tiếp theo, để xem xét giải quyết vụ việc theo thẩm quyền hoặc đôn đốc kiểm tra quá trình giải quyết vụ việc (thi hành quyết định có hiệu lực, giám sát kiểm tra…). Đồng thời, tiếp công dân được thực hiện trong quá trình xem xét thẩm tra, xác minh giải quyết vụ việc. Quá trình giải quyết vụ việc, việc cơ quan có thẩm quyền, thông qua tiếp công dân nhằm thu thập thông tin, thẩm tra xác minh những thông tin đã thu nhận được và hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình trong khuôn khổ pháp luật quy định…Thậm chí việc tổ chức đối thoại, giải quyết vụ việc cũng có thể được hiểu là việc tiếp công dân.

            Thứ ba, Luật Tiếp công dân điều chỉnh toàn diện, thống nhất và quy định rõ trách nhiệm tiếp công dân của cơ quan, tổ chức, cá nhân, hướng tới việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Sau Hiến pháp, Luật tiếp công dân là đạo luật chung, có giá trị pháp lý cao nhất về lĩnh vực tiếp công dân, quy định bao quát về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc tiếp công dân. Luật điều chỉnh việc tiếp công dân của tất cả các cơ quan, tổ chức trong cả hệ thống chính trị nhằm đảm bảo tính thống nhất và nâng cao hiệu lực pháp lý của các quy định về việc tiếp công dân. Lần đầu tiên, Ban tiếp công dân được thành lập để trực tiếp quản lý Trụ sở tiếp công dân ở mỗi cấp; phối hợp cùng đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan tổ chức, thực hiện việc tiếp công dân thường xuyên tại Trụ sở tiếp công dân. Ban tiếp công dân là cơ quan làm nhiệm vụ chủ trì, điều phối, phối hợp cùng các cơ quan hữu quan trong việc giúp các cơ quan có thẩm quyền ở trung ương và địa phương tổ chức và thực hiện tiếp công dân thường xuyên tại Trụ sở tiếp công dân. Việc thành lập Ban tiếp công dân nhằm làm rõ vị trí pháp lý của tổ chức này, không làm thay, làm giảm vai trò, vị trí của các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong việc tiếp công dân. Theo đó, các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị phải có trách nhiệm tiếp công dân, bao gồm các cơ quan của Đảng, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập; đặc biệt là trách nhiệm tiếp công dân của các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan hành chính nhà nước, bao gồm: Chính phủ; Bộ, cơ quan ngang bộ; tổng cục và tổ chức tương đương; cục; Ủy ban nhân dân các cấp; cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Đây là lần đầu tiên chúng ta có một đạo luật chuyên biệt điều chỉnh thống nhất, toàn diện về hoạt động tiếp công dân nói chung, trách nhiệm tiếp công dân của các cơ quan, tổ chức nói riêng. Tuy nhiên, để đảm bảo tính đặc thù trong hoạt động tiếp công dân của các cơ quan của Nhà nước, Luật chỉ quy định những vấn đề chung nhất, mang tính khái quát về việc tiếp công dân của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp và giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội, căn cứ vào Luật này quy định việc tiếp công dân của các cơ quan này. Tương tự như thế, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán Nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quy định cụ thể việc tổ chức tiếp công dân của cơ quan mình, của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp, của Kiểm toán Nhà nước khu vực. Đồng thời, việc tiếp công dân của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội sẽ do cơ quan trung ương của các tổ chức này quy định trên cơ sở mục tiêu, nguyên tắc và quy trình được quy định trong luật này, phù hợp với tính chất, đặc điểm của từng cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống mình; Chính phủ quy định cụ thể việc tiếp công dân tại các cơ quan thuộc Chính phủ, đơn vị sự nghiệp công lập.

Thứ tư, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác tiếp công dân, tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.

Trên thực tế, ở một số nơi, người đứng đầu cơ quan chưa thực sự quan tâm đến công tác tiếp công dân, chưa nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ trực tiếp tiếp công dân theo quy định. Nhằm nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan trong công tác tiếp công dân cũng như phân biệt giữa trách nhiệm của người đứng đầu với trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc tiếp công dân, Điều 18 của Luật quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan trong công tác tiếp công dân. Nội dung này đã được cụ thể hóa tại Điều 4 của Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiếp công dân. Theo đó, người đứng đầu các cơ quan có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức công tác tiếp công dân của cơ quan mình như ban hành nội quy, quy chế tiếp công dân; bố trí địa điểm thuận lợi cho việc tiếp công dân; bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ việc tiếp công dân; phân công cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân thường xuyên; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan tiếp công dân và xử lý vụ việc nhiều người cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung; kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có trách nhiệm thuộc quyền quản lý của mình thực hiện các quy định của pháp luật trong việc tiếp công dân; có trách nhiệm bảo đảm an toàn, trật tự cho hoạt động tiếp công dân; báo cáo tình hình, kết quả công tác tiếp công dân với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Luật cũng quy định thống nhất thời gian tiếp công dân định kỳ của người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương trên cơ sở đảm bảo tính phù hợp thực tiễn. Theo đó, người đứng đầu cơ quan có trách nhiệm trực tiếp tiếp công dân ít nhất 01 ngày trong 01 tháng tại địa điểm tiếp công dân của cơ quan mình. Ngoài ra, Luật cũng quy định người đứng đầu cơ quan còn có trách nhiệm tiếp công dân đột xuất trong những trường hợp như vụ việc gay gắt, phức tạp, có nhiều người tham gia, liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc ý kiến của các cơ quan, tổ chức, đơn vị còn khác nhau; vụ việc nếu không chỉ đạo, xem xét kịp thời có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc có thể dẫn đến hủy hoại tài sản của Nhà nước, của tập thể, xâm hại đến tính mạng, tài sản của nhân dân, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo là của người đứng đầu, cán bộ, công chức, bộ phận chuyên trách tiếp công dân chỉ có thẩm quyền và trách nhiệm tham mưu. Do đó, bên cạnh quy định về trực tiếp thực hiện việc tiếp công dân, Luật còn quy định khi tiếp công dân, người đứng đầu cơ quan phải có ý kiến trả lời về việc giải quyết vụ việc cho công dân. Trường hợp chưa trả lời ngay được thì chỉ đạo các cơ quan, tổ chức, đơn vị, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý của mình kịp thời xem xét, giải quyết và thông báo thời gian trả lời cho công dân.

Có thể thấy rằng việc quy định cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm của người đứng đầu trong việc trực tiếp thực hiện tiếp công dân được coi là một bước tiến quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phát huy dân chủ, hướng tới bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trong của công tác này, mặc dù Luật Tiếp công dân mới có hiệu lực chưa lâu, Nghị định hướng dẫn cũng mới được ban hành, nhưng một số bộ, ban, ngành và địa phương đã tích cực, chủ động triển khai thực hiện để đưa các quy định của Luật và Nghị định vào cuộc sống. Theo phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng, người dân được tiếp rất vui mừng và bày tỏ sự tin tưởng vào đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tin cậy và tôn trọng việc giải quyết của người đứng đầu; đồng thời, cũng phản ánh tâm tư, nguyện vọng của bản thân về những vụ việc mà chính quyền và người dân còn chưa có tiếng nói chung.

Thứ năm, quy định rõ quy trình, biện pháp, trách nhiệm tiếp và xử lý trường hợp nhiều người cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung.

Theo thống kê của Thanh tra Chính phủ, từ năm 2008 - 2011, các cơ quan hành chính nhà nước đã tiếp 1.571.505 lượt người đến khiếu nại, tố cáo, trong đó có 13.876 đoàn đông người; năm 2012, các cơ quan nhà nước đã tiếp 429.552 lượt người, có 4.722 đoàn đông người; năm 2013, con số này là 380.331 lượt công dân, với 4.481 đoàn đông người[1]. Trong năm 2014, có nhiều đoàn khiếu nại, tố cáo lên tới hàng trăm người.

Từ những con số trên cho thấy rằng những năm gần đây, mặc dù số lượng khiếu nại, tố cáo nói chung có chiều hướng giảm xuống nhưng con số về đoàn khiếu nại, tố cáo đông người vẫn rất cao và còn có xu hướng tăng thêm. Rõ ràng vấn đề nhiều người cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung là một thực tế cần phải giải quyết nhưng trước đây chúng ta còn có những cách nhìn khác nhau về bản chất vụ việc. Có lẽ xuất phát từ định kiến về những vụ việc nhân dân bị kẻ xấu kích động, xúi, tụ tập đông người, chống phá chế độ... nên đôi khi chúng ta chưa thực sự nhìn nhận một cách khách quan việc bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người dân trong những trường hợp nhiều người cùng đến cơ quan tiếp công dân để khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về cùng một nội dung. Do đó, trong một thời gian dài, việc xử lý các tình huống  nhiều người cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh cùng một nội dung chưa được quy định trong một đạo luật, chưa có cơ sở pháp lý vững chắc để thực hiện và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân trong những tình huống đó. Luật Tiếp công dân ra đời đã khắc phục vấn đề trên khi dành Chương VII quy định về trách nhiệm tiếp và xử lý trường hợp nhiều người cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung. Theo đó, quy định cụ thể về việc cử người đại diện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung (Điều 29); tiếp và xử lý trường hợp nhiều người cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung tại nơi tiếp công dân (Điều 30); trách nhiệm phối hợp của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc tiếp và xử lý trường hợp nhiều người cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh (Điều 31); trách nhiệm của Tổng Thanh tra Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công an, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh (Điều 32). Có thể nói rằng, việc luật hóa và ghi nhận trường hợp nhiều nhiều cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung; quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chủ trì và phối hợp tiếp nhận, xử lý nhiều người cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung là một bước tiến mới trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân dưới giác độ pháp luật về tiếp công dân của nước ta.

2. Một số kiến nghị biện pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo quy định của Luật Tiếp công dân

Với sự ra đời của Luật Tiếp công dân 2013, tiếp theo đó là Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiếp công dân, có thể nói cơ chế pháp lý bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân thông qua hoạt động tiếp công dân đã được tiếp tục khẳng định và hoàn thiện thêm một bước quan trọng. Triển khai thực hiện hiệu quả cơ chế pháp lý này, các cấp, các ngành cần quán triệt và thực hiện tốt Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nghiêm túc tổ chức triển khai thực hiện Luật Tiếp công dân một cách thiết thực, hiệu quả để nhân dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, thể hiện vai trò làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của mình theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng. Cụ thể, để cơ chế pháp lý này không chỉ là những quy định trên giấy mà phải đi vào thực tiễn đời sống thực chất hơn và phát huy hiệu lực, hiệu quả, theo chúng tôi cần phải thực hiện một số biện pháp sau đây:

Một là, hoàn thiện tổ chức bộ máy và kiện toàn, nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo:

Khẩn trương hoàn thành việc thành lập Ban Tiếp công dân các cấp, nhất là Ban Tiếp công dân ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các quận, huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh để các Ban này sớm đi vào hoạt động. Đồng thời, các bộ, ban, ngành, cơ quan, tổ chức cũng cần quan tâm kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tiếp công dân tương xứng với chức năng, nhiệm vụ đã được quy định; xây dựng và hoàn thiện thể chế nội bộ như ban hành các quy chế, nội quy, quy trình tiếp công dân trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình phù hợp với quy định của Luật Tiếp công dân và để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hiện nay. Song song với việc hoàn thiện, kiện toàn về tổ chức bộ máy thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, các cơ quan, tổ chức, đơn vị cũng cần quan tâm đến nguồn nhân lực làm công tác tiếp công dân, tránh tình trạng cán bộ, công chức nào khó sắp xếp, bố trí, thậm chí không làm được việc gì thì giao làm nhiệm vụ tiếp công dân. Các cấp lãnh đạo cần nhận thức đúng vai trò, tầm quan trọng của công tác tiếp công dân để bố trí cán bộ làm công tác tiếp công dân và tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo có phẩm chất đạo đức, tinh thông nghiệp vụ, có khả năng hướng dẫn, giải thích, thuyết phục để công dân hiểu và chấp hành đúng pháp luật. Thanh tra Chính phủ cần phối hợp với các bộ, ngành đề xuất Chính phủ, Quốc hội ban hành những chính sách, chế độ đãi ngộ hợp lý để thu hút người có tâm, có tài yên tâm làm công tác tiếp công dân.

Hai là, tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo:

Các cơ quan cấp trên, đặc biệt là Thanh tra Chính phủ cần thường xuyên hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, kịp thời giải đáp các vướng mắc, khó khăn phát sinh trên thực tế. Đồng thời, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, tổ chức, chú trọng thanh tra công vụ và thanh tra trách nhiệm, đặc biệt là thanh tra trách nhiệm người đứng đầu của các cơ quan, tổ chức đơn vị trong việc thực hiện quy định của Luật Tiếp công dân và thực hiện các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan cấp trên. Qua thanh tra, kiểm tra, chú trọng phát hiện, khắc phục những hạn chế, tồn tại và xử lý kịp thời, nghiêm minh các vi phạm trong việc tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thực hiện tốt công tác này chắc chắn sẽ tăng cường kỷ cương hành chính, trách nhiệm công vụ, dẫn đến những thay đổi tích cực về thái độ, lề lối, tác phong tiếp công dân của cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Ba là, nâng cao trách nhiệm người đứng đầu trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo:

Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước phải coi trọng, thực hiện nghiêm quy định của của pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong đó phải tiếp công dân định kỳ hàng tháng, tăng cường đối thoại trực tiếp với công dân, đổi mới công tác tiếp công dân, gắn tiếp dân với kiểm tra, đôn đốc, giải quyết khiếu nại, tố cáo; tập trung giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, không để công dân phải chờ lâu, bức xúc dẫn đến khiếu nại vượt cấp; khẩn trương tổ chức thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo có hiệu lực pháp luật, không để kéo dài, hạn chế tiếp khiếu; xử lý kịp thời, nghiêm minh những trường hợp vi phạm dẫn đến khiếu nại, tố cáo và vi phạm trong quá trình tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Định kỳ 6 tháng, hàng năm có đánh giá, kiểm điểm về tình hình thực hiện công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp dưới; coi đó là một trong các tiêu chí đánh giá năng lực, kết quả công tác của cán bộ. Bên cạnh đó, căn cứ tình hình thực tế, người đứng đầu các cơ quan cấp trên nên thường xuyên về các địa phương trực tiếp chỉ đạo, phối hợp với Ủy ban nhân dân các cấp nơi xảy ra vụ việc đông người để tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thực hiện việc này không những tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của mình ít tốn kém chi phí, mang lại lòng tin yêu của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước mà còn giảm áp lực công dân tập trung khiếu kiện ở Trung ương và nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân.

Bốn là, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật:

Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật nói chung, về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo nói riêng còn rất hạn chế. Thực tế hiện nay cho thấy, trong các khiếu nại tố cáo của công dân có tới khoảng 60% khiếu nại, tố cáo sai[2]. Nguyên nhân của việc này thì có thể xuất phát từ nhiều lý do như chây ì, cố tình khiếu nại, tố cáo sai… nhưng cũng chứng tỏ một điều rằng hiểu biết pháp luật của nhân dân về các pháp luật có liên quan còn hạn chế. Mặt khác, con số khoảng 40% khiếu nại, tố cáo đúng hoặc có đúng, có sai[3] cũng không phải là không nghiêm trọng vì dù chỉ một vụ việc giải quyết sai cũng ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của người dân, thậm chí là ảnh hưởng đến tương lai của cả gia đình… Do đó, rất cần thiết phải tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo một cách sâu rộng cho mọi tầng lớp nhân dân và cán bộ công chức để nhận thức rõ về quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực này, đồng thời cũng để cán bộ, công chức nhận thức đúng đắn trách nhiệm của mình. Cụ thể, chúng ta cần chú trọng việc thông tin, tuyên truyền về các vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ thể, đảm bảo chính xác, khách quan, trung thực; thu hút sựu tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội như luật sư, luật gia…vào công tác tuyên truyển, phổ biến pháp luật; kịp thời phê phán, xử lý những hành vi vi phạm và những biểu hiện sai trái trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo; biểu dương những tổ chức, cá nhân có nhiều thành tích trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các cơ quan thông tin đại chúng đề cao trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin, bảo đảm chính xác, kịp thời, trung thực, khách quan; khi có sai sót phải kịp thời cải chính, góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội và hỗ trợ công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Năm là, xây dựng cơ chế phối hợp trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo giữa cơ quan hành chính nhà với Tòa án nhân dân:

Hiện nay, có nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo đã được các cơ quan hành chính nhà nước các cấp giải quyết hết thẩm quyền, đã vận dụng các chính sách của nhà nước để hỗ trợ, tạo điều kiện bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng của người khiếu nại, tố cáo nhưng vẫn không dứt điểm được vụ việc. Trong khi đó, theo quy định của pháp luật hiện nay, ở nước ta đang tồn tại hai cơ chế giải quyết các dạng tranh chấp hành chính như thế này, đó là: cơ chế hành chính, do các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại; và cơ chế tư pháp, do Tòa án các cấp thực hiện theo thủ tục tố tụng hành chính, có phạm vi và thẩm quyền giải quyết đang ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên, trên thực tế, tỷ lệ số vụ việc người dân khởi kiện ra Tòa án còn rất ít, nhiều vụ khiếu nại, tố cáo tồn động kéo dài, cơ quan nhà nước đã ra thông báo chấm dứt giải quyết khiếu nại nhưng người khiếu vẫn tái khiếu mà không khởi kiện ra Tòa để được giải quyết theo thủ tục tư pháp. Theo chúng tôi, Thanh tra Chính phủ cần giúp Chính phủ phối hợp với Tòa án nhân dân Tối cao phân tích tìm ra những nguyên nhân tại sao người dân lại ngại đưa vụ việc sang Tòa án mặc dù đã vụ việc đã được giải quyết hết thẩm quyền ở cơ quan hành chính nhà nước. Đồng thời, qua đó đề xuất cơ chế phối hợp giữa Tòa án với cơ quan hành chính nhà nước để Tòa án tiếp nhận, xử lý và giải quyết các khiếu nại mà cơ quan hành chính nhà nước hướng dẫn người dân khởi kiên ra Tòa. Cơ chế phối hợp này nếu được xây dựng khoa học, hợp lý và tổ chức thực hiện tốt, chắc chắn quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân trong lĩnh vực này sẽ được bảo đảm.

Thay cho lời kết: Có thể nói, Luật Tiếp công dân đã quán triệt và cụ thể hóa đúng đắn đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; đánh dấu một bước phát triển mới, rất quan trọng về cơ chế pháp lý bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở nước ta. Để triển khai thực hiện có hiệu quả cơ chế pháp lý dân chủ, pháp quyền này, cần phải thực hiện kịp thời và đồng bộ các biện pháp, nhiệm vụ cụ thể, đòi hỏi một quyết tâm rất lớn của cả hệ thống chính trị; mỗi cán bộ, công chức phải đề cao đạo đức công vụ trong nhận thức và hành động, thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ về trách nhiệm của người Đảng viên, người cán bộ đối với nhân dân. Công tác tiếp công dân được thực hiện tốt, quyền con người, quyền công dân được bảo đảm sẽ góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước./. 

             Nguyễn Thắng Lợi - Phó Chánh Thanh tra Bộ pháp



[1] Hội đồng phối hợp Phổ biến giáo dục Trung ương, Đặc san tuyên truyền pháp luật số 03/2014, chủ đề tìm hiểu về pháp luật tiếp công dân.

[2] Tài liệu phục vụ Hội nghị trực tuyến ngày 19/9/2014 triển khai Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị, Luật Tiếp công dân, Nghị định số 64/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Tiếp công dân.

[3] Như đã trên đã dẫn.