Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu của các tổ chức tín dụng - Nhìn từ góc độ các quy định của pháp luật hiện hành về xử lý tài sản bảo đảm (tiếp theo)

19/10/2012
Trên cơ sở những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành, chúng tôi có một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm, qua đó rút ngắn thời gian thu hồi và xử lý tài sản bảo đảm, giảm tỷ lệ nợ xấu cho các tổ chức tín dụng và thúc đẩy nguồn vốn lưu thông phục vụ sản xuất - kinh doanh phát triển.

Phần II. Ý kiến của các chuyên gia và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm

1. Ý kiến của các chuyên gia

1.1. Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - luật, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh thì “trong hoàn cảnh bức bách giữa một khung pháp lý bất cập, chủ nợ và cả người mắc nợ vẫn cần phải biết mình có quyền và có nghĩa vụ làm gì để giải quyết đến nơi đến chốn câu chuyện đòi nợ gai góc. Việc ban hành một Thông tư nhằm chỉ rõ những việc phải làm và được phép làm nhằm đạt mục tiêu đó, là điều cần thiết trước mắt”.

1.2. Theo quy định tại khoản 2 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP thì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất thuộc quyền sử dụng chung của hộ gia đình phải được tất cả các thành viên có đủ năng lực hành vi dân sự trong hộ gia đình đó thống nhất và ký tên hoặc có văn bản uỷ quyền theo quy định của pháp luật về dân sự. Trong khi đó, khoản 2 Điều 109 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý. Do vậy, theo Luật sư Trương Thanh Đức - Giám đốc khối pháp chế của Ngân hàng Hàng hải thì “pháp luật không quy định rõ, nên mỗi công chứng viên, mỗi tổ chức công chứng suy luận và “quyết” một kiểu thủ tục khác nhau khi chứng nhận giao dịch hợp đồng liên quan đến tài sản của Hộ gia đình. Vì vậy, trong lĩnh vực ngân hàng, cứ 10 giao dịch thế chấp tài sản liên quan đến Hộ gia đình, thì có tới 9 vụ rơi vào tình trạng mông lung, không chắc chắn, không yên tâm, dù đã được công chứng”. Hạn chế nêu trên của pháp luật cần sớm được nghiên cứu giải quyết, vì trường hợp người sử dụng đất là hộ gia đình thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng chiếm tỷ lệ rất lớn hiện nay. 

1.3. Theo ông Dương Thanh Minh (Giám đốc Công ty xử lý nợ của Ngân hàng Bắc Á tại TP.Hồ Chí Minh) thì Các quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm cần chú trọng đến việc đề cao quyền chủ động của TCTD, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo đảm quyền chủ động của TCTD khi xử lý tài sản bảo đảm, vì thực tiễn cho thấy hầu hết vụ việc nếu không thực hiện được theo thoả thuận (trong giai đoạn xử lý) đều phải khởi kiện, gây tốn kém về thời gian, chi phí, hiệu quả xử lý không cao (ví dụ, tài sản bị tẩu tán, thời gian kéo dài nên giảm sút giá trị,…), nhiều vụ việc giá trị thu hồi vốn không đáng kể, thậm chí mất vốn.

2. Một số đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật

2.1. Để kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, các Bộ, ngành cần sớm ban hành Thông tư liên tịch về xử lý tài sản bảo đảm. Hiện tại, thực hiện Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đang chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, xây dựng dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn về xử lý tài sản bảo đảm, trong đó tập trung giải quyết một số “điểm nghẽn” trong hoạt động xử lý tài sản bảo đảm hiện nay như: vấn đề thu giữ tài sản bảo đảm, về xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp có sự thay đổi về hiện trạng do bên thế chấp hoặc người thứ ba đầu tư, về chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm cho người mua, người nhận chuyển nhượng… Tuy nhiên, trong khuôn khổ “chật hẹp” của một văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định, các nội dung quy định tại Thông tư này chưa thể đáp ứng hết “kỳ vọng” của thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm do sự ràng buộc và hạn chế về nội dung pháp lý bởi các quy định tại Bộ luật Dân sự 2005, Luật Đất đai 2003 và các Nghị định hướng dẫn thi hành.

2.2. Trong tiến trình hoàn thiện pháp luật, các cơ quan nhà nước cần nghiên cứu, sửa đổi tổng thể, đồng bộ các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản pháp luật có liên quan về xử lý tài sản bảo đảm nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ có bảo đảm trong sự hài hòa lợi ích với các chủ thể khác có liên quan, trong đó tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây:

- Nghiên cứu, tiếp cận các vấn đề về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự dưới giác độ của các nguyên lý về vật quyền bảo đảm. Việc tiếp cận lý thuyết này cho phép bên nhận bảo đảm thực thi ngay các quyền xác lập trên tài sản bảo đảm phát sinh từ thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm đã ký kết, đồng thời giúp bên bảo đảm có khả năng tự mình xử lý khối tài sản bảo đảm và thu hồi lợi ích của mình trong thời gian nhanh nhất với thứ tự ưu tiên thanh toán cao nhất trong trường hợp đã đăng ký quyền phát sinh từ việc nhận tài sản bảo đảm (đăng ký vật quyền bảo đảm) tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

- Rà soát để bãi bỏ những quy định không phù hợp với thực tiễn hoặc hạn chế các chủ thể thiết lập, thực hiện các giao dịch bảo đảm, ví dụ như: quy định “về giá trị của tài sản so với tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm (khoản 1 Điều 324 Bộ luật Dân sự 2005) hay quy định giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bên nhận thế chấp giữ trong trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất (khoản 1 Điều 717, khoản 5 Điều 718 Bộ luật Dân sự 2005)...; bãi bỏ các quy định về giao dịch bảo đảm còn mâu thuẫn, chưa thống nhất, ví dụ như cách thức xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất (Luật Đất đai năm 2003 quy định trong trường hợp không xử lý được theo thoả thuận thì quyền sử dụng đất được bán đấu giá, trong khi đó Bộ luật Dân sự 2005 quy định bên nhận bảo đảm phải khởi kiện tại Toà án); nghiên cứu bổ sung một số quy định nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn, ví dụ như: những quy định bảo vệ quyền kiểm soát tài sản thế chấp do bên thế chấp hoặc người thứ ba đầu tư hay bổ sung quy định về xác định tư cách thành viên hộ gia đình, thống nhất tên gọi và nội dung của việc người sử dụng đất dùng quyền sử dụng đất của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác của Luật Đất đai 2003 và Bộ luật Dân sự 2005, nghiên cứu bổ sung cơ chế cơ quan thi hành án tham gia vào quá trình thu giữ tài sản bảo đảm trong giai đoạn tiền tố tụng... Việc sửa đổi, bổ sung các quy định nêu trên sẽ góp phần giảm thiểu những rủi ro pháp lý, cản trở việc thực thi quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm.

- Nghiên cứu áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn nhằm rút ngắn thời gian giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, giảm chi phí xử lý tài sản bảo đảm, đồng thời giảm thiểu nguy cơ rủi ro thanh khoản do nợ xấu tăng cao. Thực tiễn cho thấy, bên nhận bảo đảm không chỉ quan tâm đến kết quả xử lý tài sản bảo đảm mà còn quan tâm đến thời điểm thu hồi được vốn vay khi xử lý tài sản bảo đảm. Hiện nay, “có 56 nước áp dụng quy trình tố tụng giản lược này, nhờ đó thời gian để tiến hành xử lý tài sản thế chấp ở những nước này ít hơn 50% so với những nước dùng các biện pháp xét xử khác”[1]. Trong thời gian tới cần nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về việc áp dụng thủ tục rút gọn, nhằm đẩy nhanh quá trình tiếp cận và xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.

- Quy định chính xác, toàn diện thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các chủ thể có quyền, lợi ích liên quan đến tài sản bảo đảm, góp phần đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các bên khi tham gia giao dịch bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Ngoài ra, Nhà nước cần xây dựng cơ chế thi hành án dân sự hiệu quả, đảm bảo thực thi kết quả xử lý tài sản bảo đảm trong thời gian sớm nhất với chi phí thấp nhất, từ đó tạo cơ sở cho bên nhận bảo đảm được thực hiện ngay các quyền hợp pháp của mình đối với tài sản bảo đảm như: quyền thu hồi tài sản, quyền nhận chính tài sản bảo đảm, quyền bán tài sản bảo đảm…

Hồ Quang Huy - Nguyễn Quang Hương Trà

 


[1]Theo ấn phẩm Môi trường kinh doanh năm 2006 do Ngân hàng thế giới và Công ty Tài chính quốc tế đồng xuất bản