Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu của các tổ chức tín dụng - Nhìn từ góc độ các quy định của pháp luật hiện hành về xử lý tài sản bảo đảm

15/10/2012
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu của các Tổ chức tín dụng có xu hướng tăng nhanh từ năm 2008 tới nay[1]. Tính đến 31/3/2012, nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng vào khoảng 202.000 tỷ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ. Trong đó, tỷ lệ nợ có bảo đảm bằng tài sản chiếm 84,16% và tổng giá trị tài sản bảo đảm bằng 134,8% tổng nợ xấu. Những con số thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, nợ xấu khiến cho dòng chảy tín dụng của nền kinh tế bị “tắc nghẽn”. Song, thực tiễn cho thấy việc giải quyết vấn đề này đang gặp phải rất nhiều khó khăn, trong đó có rào cản từ chính khuôn khổ pháp lý về xử lý tài sản bảo đảm.

Phần 1. Những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành đã cản trở việc hiện thực hóa các thỏa thuận về xử lý tài sản bảo đảm

Xử lý tài sản bảo đảm là hệ quả pháp lý của hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của bên bảo đảm. Kết quả xử lý tài sản bảo đảm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của bên bảo đảm (chủ sở hữu tài sản), bên nhận bảo đảm (bên hưởng lợi từ việc xử lý tài sản bảo đảm) và các chủ thể khác có lợi ích liên quan (cơ quan nhà nước, người mua, người nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm ngay tình)... Do quá trình xử lý tài sản bảo đảm rất dễ xảy ra các tranh chấp, bất đồng về lợi ích giữa các bên liên quan đến tài sản bảo đảm nên cần phải thiết lập một hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm, trong đó có quy định về xử lý tài sản bảo đảm thực sự đồng bộ, hoàn thiện.

Trong thời gian qua, pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm đã góp phần tạo lập một môi trường pháp lý an toàn, thuận lợi cho quá trình xử lý tài sản bảo đảm, giúp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, các quy định của pháp luật hiện hành vẫn chưa thực sự đáp ứng đầy đủ nhu cầu điều chỉnh của thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm, cụ thể như sau:

1. Pháp luật dân sự hiện hành chưa tiếp cận giao dịch bảo đảm từ các nguyên lý của vật quyền bảo đảm nên quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ có bảo đảm chưa được bảo vệ đầy đủ

Theo lý thuyết về vật quyền bảo đảm (quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm), người có vật quyền bảo đảm có quyền tuyệt đối, trực tiếp và ngay tức khắc đối với tài sản bảo đảm khi vật quyền bảo đảm đó được công khai hóa (được đăng ký) theo quy định của pháp luật. Lý thuyết này cho phép bên có vật quyền bảo đảm (bên nhận bảo đảm) có quyền thu hồi tài sản bảo đảm để xử lý ngay cả khi tài sản bảo đảm đó đang thuộc quyền chiếm giữ, kiểm soát và chi phối bởi các chủ thể khác. Tuy nhiên, các khía cạnh pháp lý về nghĩa vụ được bảo đảm và giao dịch bảo đảm trong Bộ luật Dân sự 2005 chưa được nghiên cứu, tiếp cận từ các nguyên lý của vật quyền bảo đảm. Do đó, quyền chủ nợ của bên nhận bảo đảm chưa được bảo vệ tương xứng với vị thế của chủ thể này trong quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, ví dụ như quyền thu giữ tài sản bảo đảm, quyền truy đòi tài sản bảo đảm để xử lý, đặc biệt là đối với tài sản bảo đảm không đăng ký quyền sở hữu. Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - luật, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh thì “Toàn bộ chế độ pháp lý hiện hành về bảo đảm nghĩa vụ có những khuyết tật kỹ thuật cơ bản, nếu được đánh giá theo các tiêu chí được thiết lập trong các hệ thống pháp luật tiên tiến. Chính do những khuyết tật đó mà việc triển khai các quy định về xử lý tài sản bảo đảm trong thực tiễn gặp khó khăn. Việc hoàn thiện pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ, trong đó có xử lý tài sản bảo đảm đòi hỏi những nỗ lực cải cách sâu rộng ngay từ gốc, từ Bộ luật Dân sự”.

2. Một số các quy định của pháp luật hiện hành thiếu cụ thể, rõ ràng đã dẫn đến những vướng mắc trong việc xác định hiệu lực của giao dịch bảo đảm, gây rủi ro cho bên nhận bảo đảm

2.1. Pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về căn cứ xác định tư cách thành viên hộ gia đình, mặc dù đây là chủ thể tham gia rất nhiều trong các giao dịch vay vốn tại ngân hàng

Một trong các căn cứ xác định giao dịch bảo đảm do hộ gia đình ký kết có hợp pháp hay không chính là xác định các thành viên của hộ gia đình - những người có quyền quyết định việc xác lập giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, vấn đề có ý nghĩa mấu chốt này lại đang được pháp luật “bỏ ngỏ”. Cụ thể là, ngoài định nghĩa về hộ gia đình tại Điều 106 Bộ luật Dân sự 2005, pháp luật hiện hành không có quy định hướng dẫn về tiêu chí, căn cứ pháp lý làm cơ sở xác định tư cách thành viên hộ gia đình. Thực tế này đã dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau. Cách hiểu thứ nhất cho rằng, việc xác định thành viên hộ gia đình phải dựa trên số lượng thành viên thực tế có trên Sổ hộ khẩu tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo đảm. Cách hiểu thứ hai lại cho rằng, việc xác định thành viên hộ gia đình phải căn cứ trên số lượng thành viên tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình. Thực tiễn cho thấy, do thiếu tiêu chí pháp lý xác định tư cách thành viên hộ gia đình và thiếu thống nhất trong các quy định của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai và Bộ luật Dân sự 2005 về việc xác định thành viên hộ gia đình có quyền ký tên vào hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất đã dẫn đến nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc xác định hiệu lực của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của hộ gia đình, dẫn đến rủi ro cho bên nhận bảo đảm trong quá trình nhận và xử lý tài sản bảo đảm là tài sản chung của hộ gia đình.

2.2. Pháp luật hiện hành thiếu các quy định cần thiết nhằm hỗ trợ và thúc đẩy bên nhận bảo đảm thực thi quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý

Về nguyên lý chung, trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã giao kết, bên nhận bảo đảm có quyền truy đòi, thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý. Tuy nhiên, do việc chuyển giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý đồng nghĩa với việc bên bảo đảm bị mất tài sản đó, nên bên bảo đảm thường có thái độ bất hợp tác, chây ì và tìm cách trì hoãn việc chuyển giao tài sản bảo đảm. Trước thực tế này, khoản 5 Điều 63 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã quy định về sự hỗ trợ của Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan Công an đối với hoạt động thu giữ tài sản bảo đảm trong vai trò “giữ gìn an ninh, trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm”. Việc quy định vai trò giữ gìn an ninh, trật tự của Uỷ ban nhân dân và cơ quan Công an trong quá trình bên nhận bảo đảm thực hiện việc thu giữ tài sản bảo đảm là hợp lý, nhằm tránh tình trạng “hành chính hóa” các quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, hiện pháp luật chưa có các quy định về cụ thể về việc Ủy ban nhân dân và cơ quan Công an thực thi vai trò này như thế nào. Do vậy, trải qua 5 năm thi hành Nghị định số 163/2006/NĐ-CP cho thấy, quy định này chưa thực sự phát huy hết hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh đó, thực tiễn cũng cho thấy, bên nhận bảo đảm không chỉ có nhu cầu chính quyền giữ gìn an ninh trật tự trong trường hợp bên giữ tài sản bảo đảm có dấu hiệu chống đối, cản trở, gây mất an ninh, trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác mà quan trọng hơn là hỗ trợ thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Vậy, cơ quan nào có thể giúp bên nhận bảo đảm thực hiện quyền năng này? Theo quy định của pháp luật hiện hành, bên nhận bảo đảm chỉ có cách khởi kiện ra Tòa án đòi tài sản và cơ quan thi hành án sẽ thực hiện công việc này sau khi bản án đã tuyên của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, quá trình này thường mất rất nhiều thời gian và chi phí của bên nhận bảo đảm.

3.Hoạt động xử lý tài sản bảo đảm chưa có được sự hỗ trợ cần thiết và đầy đủ từ các các quy định của pháp luật khác có liên quan (pháp luật về tố tụng, hành chính, định giá tài sản bảo đảm, bán đấu giá tài sản…)

3.1. Một trong các phương thức xử lý tài sản bảo đảm là bán đấu giá tài sản. Thực tiễn cho thấy, hoạt động xử lý tài sản bảo đảm rất cần sự hỗ trợ từ chính các quy định và sự hoạt động chuyên nghiệp của tổ chức đấu giá và tổ chức định giá bán tài sản. Tuy nhiên, trong bối cảnh nước ta hiện nay, hoạt động định giá chưa mang tính phổ biến và chuyên nghiệp nên việc xác định giá bán tài sản bảo đảm gặp nhiều khó khăn, thậm chí phát sinh nhiều tranh chấp, ảnh hưởng đến tiến độ xử lý tài sản bảo đảm.

3.2. Quy trình tố tụng hiện hành cũng dẫn đến khó khăn cho chủ nợ có bảo đảm trong quá trình tiếp cận tài sản bảo đảm và giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm. Trong nhiều trường hợp hợp đồng bảo đảm đã được các bên ký kết theo đúng quy định của pháp luật (hợp đồng được công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm), nhưng khi phát sinh tranh chấp thì Tòa án vẫn phải giải quyết theo một quy trình tố tụng chung nên dẫn đến hệ quả là tài sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án do giá trị bị giảm, bị hư hỏng, bị tẩu tán.

3.3. Các quy định hiện hành về xác định quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm mới chỉ giới hạn trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại, mà chưa đưa ra các nguyên tắc chung về xác định vị thế quyền của các chủ thể khác có quyền và lợi ích liên quan đến tài sản tài sản bảo đảm. Ví dụ: Pháp luật về quản lý thuế chưa có quy định cụ thể về thứ tự ưu tiên thanh toán từ số tiền thu được do xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp nợ thuế mà chỉ quy định nguyên tắc chung: “Trường hợp tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế do bên thứ ba đang nắm giữ là đối tượng của các giao dịch bảo đảm hoặc thuộc trường hợp giải quyết phá sản thì việc thu tiền, tài sản khác từ bên thứ ba được thực hiện theo quy định của pháp luật” (Điều 100 Luật Quản lý thuế 2006) và “Nếu đối tượng bị cưỡng chế không có tài sản nào khác thì cơ quan tiến hành kê biên có quyền kê biên cả tài sản của người đó đang cầm cố, thế chấp, nếu tài sản đó có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được đảm bảo. Cơ quan tiến hành kê biên có trách nhiệm thông báo cho người nhận cầm cố, thế chấp biết về việc kê biên”. (điểm 5.9g khoản 5 Mục III phần B của Thông tư số 157/2007/TT-BTC ngày 24/12/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn về cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế).

4. Cơ chế, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm còn rườm rà, phức tạp và phụ thuộc quá nhiều vào ý chí của bên bảo đảm (bên có nghĩa vụ thanh toán nợ)

Việc chuyển dịch quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm từ bên bảo đảm sang người mua, người nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm bị xử lý được xem là “khâu cuối cùng”, đồng thời là “kết quả” của quá trình xử lý tài sản. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, mặc dù pháp luật cho phép bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo giao dịch bảo đảm đã giao kết nhưng khi tiến hành xử lý tài sản bảo đảm, việc định giá và chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm vẫn phải phụ thuộc nhiều vào ý chí của chủ sở hữu, gây khó khăn cho bên nhận bảo đảm trong quá trình xử lý (ví dụ: Chủ sở hữu tài sản bỏ trốn hoặc không chịu ký vào biên bản định giá tài sản hoặc không chịu ký văn bản chuyển giao quyền sở hữu cho bên mua, bên nhận chính tài sản bảo đảm). Ngoài ra, kết quả xử lý tài sản bảo đảm vẫn còn phụ thuộc vào cách thức giải quyết của cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản khi bên nhận bảo đảm thực hiện thủ tục sang tên, trước bạ đối với tài sản bảo đảm.

Hồ Quang Huy - Nguyễn Quang Hương Trà

(Hết phần 1)


[1]Nghi Thu, http://www.tapchitaichinh.vn/Trao-doi-Binh-luan/Xu-ly-no-xau-o-Viet-Nam-va-kinh-nghiem-cua-Nhat-Ban/14065.tctc