Điểm tin báo chí sáng ngày 16 tháng 11 năm 2009

16/11/2009
Trong buổi sáng ngày 16/11/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Báo Người lao dộng có bài Nên lập ủy ban thúc đẩy điều tra nghi án PCI. Bài báo phản ánh: Theo ông Nguyễn Minh Thuyết, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, lập một ủy ban như vậy là hết sức cần thiết
- Phóng viên: Trong chất vấn gửi Thủ tướng Chính phủ, ông có đặt vấn đề lập một ủy ban điều tra (UBĐT) đặc biệt của Quốc hội (QH) để phối hợp hành động, thúc đẩy nhanh quá trình điều tra nghi án nhận hối lộ tại Ban Quản lý dự án đại lộ Đông Tây và môi trường nước TPHCM (vụ PCI)?
- Ông Nguyễn Minh Thuyết: Tôi đặt vấn đề như vậy vì thấy tiến độ điều tra nghi án hối lộ PCI quá chậm nên sợ rằng có những trục trặc, khó khăn cần sự hỗ trợ từ một UBĐT của QH. Bên cạnh đó, khi gửi câu hỏi chất vấn Thủ tướng, tôi cũng được biết không chỉ có một nghi án tham nhũng liên quan tới nước ngoài. Báo chí nước ngoài đã đặt vấn đề nhiều nghi án khác, như: cáo buộc hối lộ hàng chục triệu đô la Úc để in tiền polymer; Siemens chuyển hàng trăm ngàn euro cho một quan chức VN... Do vậy, tôi rất muốn tiến hành điều tra đến nơi đến chốn nhằm tạo ra sự răn đe với tham nhũng có yếu tố nước ngoài.
- Thưa ông, đâu là cơ sở pháp lý cho việc lập một UBĐT độc lập và nếu được lập, UBĐT này sẽ gồm những thành phần nào?
- Theo Luật Tổ chức QH, QH có thể lập UBĐT để điều tra một sự việc. Nếu QH thấy cần thiết phải lập một UBĐT thì Ủy ban Thường vụ QH sẽ cân nhắc, bàn bạc với các cơ quan của QH. QH sẽ tùy tính chất, lĩnh vực mà vụ việc xảy ra để chọn thành phần thích hợp. Trong trường hợp lập UBĐT về tiến trình điều tra nghi án hối lộ PCI, Ủy ban Tư pháp của QH thích hợp nhất làm nòng cốt với sự tham gia của một số ủy ban khác như Kinh tế, Tài chính - Ngân sách, Đối ngoại... và do một phó chủ tịch QH đứng đầu.UBĐT sẽ hoạt động theo những chức trách và quyền hạn mà QH giao cho trong một nghị quyết cụ thể. Tôi nghĩ UBĐT này ít nhất sẽ làm việc với các cơ quan hành pháp, tư pháp liên quan để đánh giá lại quá trình điều tra, tiếp xúc tới các nguồn tài liệu khác nhau... Nếu cần, có thể tiếp xúc với các đối tác nước ngoài để tìm hiểu, thu thập chứng cứ.
- Việc lập UBĐT sẽ có tác dụng như thế nào đối với tiến trình điều tra nghi án hối lộ PCI và nói chung những vụ án tham nhũng trọng điểm khác?
- Nếu QH quyết định lập một UBĐT với một vụ việc cụ thể mà QH cho rằng việc giải quyết đang tiến triển chậm, thậm chí có dấu hiệu miễn cưỡng hoặc thiếu khách quan sẽ tạo ra chấn động rất lớn tới tất cả các công việc. Có lẽ nó sẽ làm cho các công việc tiến hành nhanh chóng, hiệu quả hơn và đặc biệt tác dụng sẽ càng lớn hơn nếu UBĐT làm việc có kết quả.
Chưa nói đến việc ra quyết định thành lập mà chỉ riêng việc QH bàn về vấn đề này đã có tác dụng thúc đẩy cơ quan điều tra phải làm rốt ráo và khẩn trương hơn. Nói chung khi đó, tiếng nói và vai trò của QH được khẳng định hơn đúng như quy định trong hiến pháp và pháp luật.
- Các đại biểu QH có cùng chung mối quan tâm, thắc mắc như ông về tiến độ điều tra nghi án hối lộ PCI quá chậm?
- Trước khi gửi chất vấn tới Thủ tướng, nhiều đại biểu đã trao đổi với tôi về nghi án hối lộ PCI cũng như một số vụ tham nhũng khác. Họ băn khoăn, khó hiểu trước thực tế tiến độ điều tra chậm, có phần thụ động... hay quá trình điều tra các vụ án điểm kéo dài quá lâu. Dù tin tưởng cơ quan điều tra nhưng chúng tôi vẫn không khỏi hẫng hụt trước những kết luận điều tra so với ban đầu. Vì khi Chính phủ đã chọn là vụ án điểm thì sai phạm phải nghiêm trọng chứ không phải nhẹ như vậy.
2. Báo điện tử Vietnamnet có bài Không mặn mà chống tham nhũng vì sợ không được bảo vệ. Bài báo phản ánh: Một cuộc khảo sát của Ban Nội chính Trung ương cho thấy nhiều công chức và doanh nghiệp nhà nước không mặn mà với việc đấu tranh chống tham nhũng bởi họ sợ trở thành nạn nhân của việc tố cáo tham nhũng và sợ không được bảo vệ. Cố vấn chính sách về phòng chống tham nhũng của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) Jairo Acuna-Alfaro trao đổi tiếp nội dung liên quan thực hiện Công ước LHQ về chống tham nhũng.
Theo ý kiến của ông, Việt Nam có thể làm gì để nâng cao hiệu quả của những kê khai tài sản đã thu thập?
Mỗi quốc gia có khung pháp lý và bộ văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh việc kê khai tài sản riêng. Song vẫn có một điểm chung, đó là các quy định về công khai tài sản và lợi ích có tác dụng ngăn ngừa các xung đột về lợi ích trong đội cán bộ, công chức, bởi những quy định đó nhằm nâng cao tính minh bạch trong quá trình ra quyết định và thúc đẩy trách nhiệm báo cáo, giải trình của các cán bộ, công chức trong mọi hoạt động công vụ của mình.
Phạm vi áp dụng kê khai tài sản cũng khác nhau giữa các quốc gia. Ở một số quốc gia, phạm vi áp dụng về yêu cầu kê khai tài sản là các quan chức cấp cao hoặc những quan chức nắm giữ những vị trí mang tính nhạy cảm, trong khi ở một số nước khác, việc kê khai tài sản lại áp dụng đối với công chức cấp thấp hơn. Chỉ có một số quốc gia (trong đó có Việt Nam) yêu cầu cán bộ, công chức ở tất cả các cấp thực hiện kê khai tài sản.Tuy vậy, những kinh nghiệm hay và tích cực có một điểm chung, đó là yêu cầu kê khai tài sản chỉ áp dụng đối với các quan chức cao cấp bởi làm như vậy sẽ khả thi hơn trong thực tiễn.
Như tôi đã nói ở trên, Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới yêu cầu cán bộ, công chức trong toàn hệ thống công vụ phải kê khai tài sản. Với số lượng lớn cán bộ, công chức nhà nước hiện nay, sẽ rất khó cho cơ quan chức năng quản lý và thực hiện công tác kê khai tài sản bởi sẽ có số lượng rất lớn biên bản kê khai trong khi nguồn lực cần thiết để xác minh và giám sát tính xác thực của việc kê khai còn hạn chế.
Một số phương án có thể xem xét đưa vào áp dụng trong thời gian tới đó là: chọn mẫu ngẫu nhiên để xác minh, thu hẹp phạm vi áp dụng kê khai tài sản vào nhóm cán bộ, công chức cao cấp, phân quyền cho địa phương thực hiện xác minh tính chính xác của biên bản kê khai tài sản, cho phép các tổ chức xã hội dân sự và báo chí tiếp cận các biên bản kê khai tài sản có điều kiện. Những phương án này bổ sung cho nhau và việc kết hợp các phương án này có thể thực hiện được một cách khá dễ dàng. Về lâu dài, cần xem xét thu hẹp đối tượng điều chỉnh và kinh nghiệm hay của một số quốc gia đó là chỉ áp dụng đối với quan chức, công chức cấp cao, tạo cơ chế cho việc xác minh thông tin kê khai tài sản và tăng cường năng lực cơ quan phụ trách giám sát hoạt động kê khai tài sản.
Việt Nam đang xây dựng Luật bảo vệ nhân chứng riêng trong nỗ lực phòng, chống tham nhũng. Kinh nghiệm của các nước ra sao, khi không nước nào có thể bảo vệ an toàn tuyệt đối cho người tố giác tham nhũng nhưng làm thế nào để bảo vệ tối đa?
Đây là một câu hỏi rất hay, đòi hỏi tôi phải suy nghĩ kỹ. Đây chính là một trong những phát hiện nghiên cứu chính của khảo sát ban đầu về tình hình tham nhũng năm 2005 của Ban Nội chính trung ương. Nhiều công chức và doanh nghiệp nhà nước không mặn mà với việc đấu tranh chống tham nhũng bởi họ sợ trở thành nạn nhân của việc tố cáo tham nhũng và sợ không được bảo vệ. Rất ít quốc gia trên thế giới đã đưa vào thực hiện các điều luật về bảo vệ người tố giác tham nhũng. Báo cáo của Tổ chức Liêm chính toàn cầu có trên trang web report.globalintegrity.org cung cấp một số thông tin đáng lưu ý về kinh nghiệm quốc tế liên quan đến vấn đề này.
Trong báo cáo này, Nhật Bản và Hoa Kỳ, là một trong số ít quốc gia đã ban hành đạo luật bảo vệ người tố giác các hành vi sai trái. Ở Nhật, đạo luật bảo vệ người tố giác nhằm bảo vệ người làm công tố giác các hành vi sai trái của giới chủ doanh nghiệp. Nhật Bản chưa có đạo luật nào về bảo vệ công chức tố giác các hành vi sai trái, song về căn bản công chức được bảo vệ như những người làm công tại các doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp ngoại lệ cho công chức nhà nước và, trong một số trường hợp, đạo luật công chức quốc gia, đạo luật về đạo đức công vụ, và nhiều đạo luật khác có giá trị ưu tiên cao hơn đạo luật bảo vệ người tố giác hành vi sai trái.
Theo Tổ chức Liêm chính toàn cầu, trên thực tế, đạo luật bảo vệ người tố giác hành vi sai trái vẫn chưa được áp dụng đầy đủ trong khu vực công. Những người tố giác tham nhũng trong khu vực công dường như vẫn chịu những hậu quả tiêu cực, như mất việc, bị điều động sang vị trí ít cơ hội hơn hoặc bị phân biệt đối xử, bằng cách này hay cách khác. Tổ chức Liêm chính toàn cầu cũng nhấn mạnh một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á (như Thái Lan, Philippines và Malaysia) cũng đã đưa ra các chương trình bảo vệ người tố giác và nhân chứng. Malaysia đã trình lên Nghị viện dự luật bảo vệ nhân chứng, trong đó có người tố giác tham nhũng.
Theo dự luật này, người đứng đầu cơ quan tư pháp sẽ xem xét đơn tố giác của những người đáp ứng đầy đủ các tiêu chí đối với người có đủ khả năng tố giác, trong đó có việc đáp ứng các tiêu chí về sức khoẻ và thần kinh. Philippines hiện có 8 dự luật đang chờ Hạ viện và Thượng viện xem xét. Khung pháp lý hiện nay được áp dụng để bảo vệ nhân chứng tội phạm hình sự ở Philippines là đạo luật về quyền lợi, an ninh và bảo vệ nhân chứng.
3. Báo Người lao động phản ánh: Tuần này, trong chương trình làm việc, Quốc hội (QH) sẽ thực hiện chất vấn và trả lời chất vấn trực tiếp từ ngày 17 đến hết sáng 19-11
Ông Trần Đình Đàn, Chủ nhiệm Văn phòng QH, cho biết Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ trực tiếp trả lời chất vấn trước QH trọn giờ làm việc buổi sáng 19-11. Thủ tướng sẵn sàng đối thoại, tranh luận cởi mở, thẳng thắn với đại biểu QH về hàng loạt vấn đề bức xúc và nóng bỏng của đất nước hiện nay. Trong số trên 240 chất vấn của đại biểu QH gửi tới các thành viên Chính phủ tính tới ngày 15-11, Thủ tướng Chính phủ nhận được 36 chất vấn. So với kỳ họp thứ 5, chất vấn dành cho Thủ tướng Chính phủ tăng đáng kể (từ 23 lên 36 chất vấn).
Ngoài Thủ tướng trả lời chất vấn, theo đề nghị của Ủy ban Thường vụ QH, còn có 4 thành viên Chính phủ khác trả lời chất vấn, gồm: Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Trần Văn Tuấn và Bộ trưởng Bộ Thông tin - Truyền thông Lê Doãn Hợp.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Lao động có bài Cần xử lý nghiêm những kẻ chống người thi hành công vụ. Bài báo phản ánh: Chiều 13.11, tại BV Đa khoa TƯ Thái Nguyên, ông Nguyễn Văn Hoan - Trưởng Thi hành án (THÁ) dân sự huyện Định Hoá - vẫn chưa hết bàng hoàng vì bị những kẻ chống người thi hành công vụ truy sát.
Sự việc xảy ra vào sáng 12.11 nhưng đến ngày hôm sau, những kẻ gây thương tích cho anh Hoan vẫn chưa bị xử lý. Vụ việc bắt nguồn từ tranh chấp đất đai giữa hai anh em ông La Công Sơn và ông La Công Ngọc - tại xóm Bản Hoá, xã Điềm Mặc, huyện Định Hoá. Ông Sơn kiện ông Ngọc chiếm đất của mình để xây dựng nhà cho con trai là La Công Đường. Theo kết quả xét xử của TAND tỉnh, ông Ngọc phải di dời nhà, trả lại cho ông Sơn trên 300m2 đất. THÁ huyện Định Hoá đã nhiều lần gửi thông báo, gửi quyết định cưỡng chế nhưng gia đình ông Ngọc không chấp hành. 8h00 ngày 12.11, lực lượng THÁ huyện Định Hoá nhận nhiệm vụ thi hành bản án dân sự phúc thẩm của TAND tỉnh. Khi đến nơi thi hành án, nhà ông Đường (căn nhà phải cưỡng chế di dời) khoá cửa. Khi chấp hành viên của THÁ huyện cầm loa kêu gọi gia đình ông Ngọc, ông Đường, bất ngờ vợ ông Đường lao ra từ bụi rậm, cầm dao chém thẳng vào loa. Ngay sau đó, ông La Công Ngọc, ông La Công Đường, vợ ông Ngọc cùng một số đối tượng khác (khoảng 5 - 6 người) từ chỗ ẩn nấp cầm dao quắm tấn công lực lượng thi hành án.
Ông Nguyễn Văn Hoan bị hai nhát chém, khiến ông bị đứt gân tay, ngón áp út gần đứt lìa, vai bị thương. Khi ông Hoan bỏ chạy, các đối tượng chống đối vẫn tiếp tục đuổi theo truy sát. Lực lượng chức năng đã nổ súng cảnh cáo, vẫn không ngăn được sự manh động của các đối tượng chống người thi hành công vụ. Hai đồng chí công an huyện cũng bị chém, một bị thương ở đùi, một bị chém trúng đầu phải khâu 7 mũi. Công an huyện đã huy động lực lượng tăng cường xuống nơi xảy ra tranh chấp để giải quyết vụ việc, nhưng các đối tượng chống người thi hành công vụ cố thủ trong nhà ném đá ra ngoài. Sau đó, cơ quan điều tra Công an huyện đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ hung khí nhưng vẫn chưa tạm giữ ngay các đối tượng chém người.
Dư luận tại tỉnh Thái Nguyên bức xúc trước hành vi coi thường pháp luật của những kẻ chống người thi hành công vụ, đồng thời đặt câu hỏi tại sao lực lượng chức năng địa phương vẫn chưa tỏ rõ được sự nghiêm minh của pháp luật trong vụ việc này.
2. Báo Tiền phong có bài Thi hành án cãi thẩm phán, dân nghe ai?. Bài báo phản ánh: Con kênh rộng bốn mét giữa hai gia đình, ông Lê Văn Tư và ông Nguyễn Phước Lý ở ấp 4, xã Vị Tân (TX Vị Thanh, Hậu Giang) có từ xưa, hai nhà sử dụng chung để lấy nước và bơi xuồng qua lại, và hai nhà đã kết thông gia.
Năm 2003, ông Lý cho rằng con kênh của riêng nhà ông nên rào lại. Chính quyền xã hòa giải thành, hai gia đình cắm cọc chia đôi kênh. Được ít bữa, ông Lý vẫn giành cả con kênh. Ông Tư kiện ra tòa, bản án phúc thẩm ngày 20/3/2009 của TAND tỉnh Hậu Giang phán quyết: Chia đôi con kênh, mỗi nhà một nửa. Ngày 22/6/2009, Thi hành án TX Vị Thanh có quyết định cưỡng chế thi hành án với ông Lý. Nhưng bốn ngày sau, ông Nguyễn Văn Đen, Trưởng thi hành án TX Vị Thanh, có quyết định thu hồi quyết định cưỡng chế. Ông Đen giải thích: “Hai ông tranh chấp nhau con kênh nhưng bản án của TAND tỉnh lại đề cập đến toàn bộ diện tích đất nên không thể thi hành”.
Về việc này, Thẩm phán Phạm Hồng Phong ở TAND tỉnh Hậu Giang nói, bản án tuyên đã rõ. Ông Phong giải thích, bản án tuyên kích thước chiều ngang đám đất của ông Tư, từ một mốc ranh cụ thể kéo sang, vừa vặn chiếm hai mét ngang con kênh, tức là một nửa kênh.
Người được thi hành án là ông Tư cũng cho rằng bản án tuyên đã rõ, chỉ do thi hành án không muốn thi hành, kéo dài gây khó khăn cho gia đình ông.
Ông Tư kể: “Ông Đen bảo đóng tiền để thi hành, tôi đóng tiền xong, lại không thi hành, mà cứ vòng vo đủ điều”. Một người cùng ấp là ông Lý Hoàng Điệp nói: “Con mương là của chung từ hồi nào, không thể tòa xử rồi mà vẫn để một người rào chiếm như thế, vừa coi thường luật pháp, vừa khiến tình nghĩa thông gia, láng giềng thêm sứt mẻ”.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thua kiện, được tòa “giúp” tẩu tán tài sản. Bài báo phản ánh: Theo hồ sơ, tháng 9-1993, ông Vương Gia Bân, ngụ TP Khâm Châu (Quảng Tây, Trung Quốc) bán cho bà Trần Thị Đoan, ngụ TP Huế 100 tấn bột mì trị giá 158 ngàn nhân dân tệ. Hai bên giao ước sau 15 ngày bà Đoan phải chuyển 150 tấn mây đến cảng Mao Tĩnh (TP Khâm Châu). Sau khi nhận 100 tấn bột mì chuyển về Việt Nam, bà Đoan không chuyển mây cho ông Bân theo cam kết. Sau nhiều lần qua Việt Nam tìm bà Đoan đòi nợ bất thành, tháng 7-1996, ông Bân đã khởi kiện bà Đoan ra TAND tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Tháng 11-1997, TAND tỉnh Thừa Thiên-Huế xử sơ thẩm đã tuyên buộc bà Đoan phải trả cho ông Bân 100 tấn bột mì trị giá 400 triệu đồng, trừ đi 700 ngàn đồng giá trị chiếc xe đạp mà ông Bân đã nhận của bà Đoan, số tiền còn lại bà Đoan phải trả là hơn 399 triệu đồng. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, tháng 12-1997, Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên-Huế đã ra quyết định thi hành án, buộc bà Đoan phải trả cho ông Bân hơn 399 triệu đồng. Tháng 11-2006, Thi hành án tỉnh ra quyết định cưỡng chế kê biên tài sản gồm 1/2 ngôi nhà số 67 Ông Ích Khiêm (phường Thuận Thành) là tài sản chung của vợ chồng bà Đoan. Cho rằng quyết định kê biên nhà của Thi hành án tỉnh là trái pháp luật, vợ chồng bà Đoan khiếu nại lên Cục Thi hành án dân sự nhưng không được chấp nhận.
Sau khi bị Cục Thi hành án dân sự bác đơn khiếu nại, vợ chồng bà Đoan đã khởi kiện ra TAND TP Huế xin phân chia tài sản chung và được tòa thụ lý.
Tại tòa, vợ chồng bà Đoan thỏa thuận ngôi nhà số 67 Ông Ích Khiêm là tài sản riêng của người chồng. Dù 1/2 ngôi nhà đang có lệnh kê biên của Thi hành án tỉnh nhưng tháng 9-2007, TAND TP Huế vẫn ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của vợ chồng bà Đoan. Theo đó, nhà và đất số 67 Ông Ích Khiêm là tài sản mà người chồng tạo lập trước khi chung sống với bà Đoan trị giá gần 553 triệu đồng. Trong đó, người chồng được nhận hơn 472 triệu đồng, còn bà Đoan chỉ nhận hơn 80 triệu đồng.
Ngôi nhà này thuộc diện giải tỏa. Sau khi có quyết định trên của tòa, chồng bà Đoan đã được Hội đồng bồi thường hỗ trợ tái định cư TP Huế chi trả gần 478 triệu đồng tiền đền bù giải tỏa nhà. Ngoài số tiền được bồi thường, vợ chồng bà Đoan còn được UBND TP Huế cấp lô đất số 21 tại khu quy hoạch tái định cư Hương Sơ nhưng bà Đoan từ chối nhận mà giao cho người chồng toàn quyền sử dụng. Vài ngày sau, UBND TP Huế đã cho phép chồng bà Đoan chuyển quyền sử dụng lô đất tái định cư này cho con gái đứng tên (cô này sau đó thế chấp lô đất tại một ngân hàng để vay 400 triệu đồng).
Không đồng tình với quyết định công nhận sự thỏa thuận chia tài sản của TAND TP Huế, người được ông Bân ủy quyền đã khiếu nại. Tháng 1-2008, Hội đồng giám đốc thẩm TAND tối cao đã hủy quyết định thỏa thuận phân chia tài sản của TAND TP Huế. Theo TAND tối cao, TAND TP Huế công nhận sự thỏa thuận phân chia tài sản khi hôn nhân của vợ chồng bà Đoan đang tồn tại, không có tranh chấp chia tài sản là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự, trái Điều 29 Luật Hôn nhân và Gia đình. Dù quyết định phân chia tài sản trái pháp luật của TAND TP Huế đã bị hủy nhưng đến lúc này, phía ông Bân coi như trắng tay vì tài sản của bà Đoan đã được tẩu tán sạch sẽ!
Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, ông Lê Bá Sơn, Trưởng Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên-Huế, khẳng định việc bản án có hiệu lực pháp luật bị “treo” 12 năm nay, một mặt do lỗi từ các cơ quan thực thi pháp luật ở tỉnh, một mặt do người phải thi hành án cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Trước hết là việc TAND TP Huế công nhận sự thỏa thuận chia tài sản trái pháp luật của vợ chồng bà Đoan. Tiếp đó, Hội đồng bồi thường hỗ trợ tái định cư TP Huế cũng tùy tiện khi chi trả cho chồng bà Đoan gần 478 triệu đồng tiền giải tỏa nhà trong khi 1/2 căn nhà đang bị kê biên. Số tiền chi trả sai này đến nay chưa thể thu hồi. Cạnh đó, hội đồng bồi thường cũng không chuyển số tiền hơn 80 triệu đồng (phần của bà Đoan theo quyết định phân chia của TAND TP Huế) vào tài khoản của Thi hành án. Ông Sơn khẳng định bà Đoan đã có hành vi cố ý tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ với số tiền lên tới hơn một tỷ đồng (tính cả tiền lãi quá hạn). Nhiều lần Thi hành án tỉnh và hội đồng bồi thường mời bà Đoan đến giải quyết khoản tiền hơn 80 triệu đồng đã kê biên bà đều không đến hoặc có đến thì lại lăn ra... ngất xỉu.
Hiện Thi hành án tỉnh đã gửi hồ sơ cho cơ quan điều tra Công an tỉnh đề nghị khởi tố bà Đoan về tội không chấp hành án theo Điều 304 BLHS.
Báo cũng có bài Bán nhà nuôi cha sao khó quá. Bài báo phản ánh: Gia đình chị Phạm Thị Thu Thủy (phường 15, quận 10, TP.HCM) đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Chị Thủy có ý định bán căn nhà của cha mẹ để có tiền trang trải nợ nần và lo trị bệnh cho người cha. Nhưng chuyện mua bán buộc phải tạm dừng bởi có vướng mắc về việc cử người giám sát.
Cha mẹ chị Thủy chỉ có chị là người con duy nhất. Người thân thích của chị Thủy cũng không còn ai. Khi lấy chồng, chị Thủy dọn ra ở riêng. Cha mẹ chị tiếp tục ở căn nhà mua hóa giá của nhà nước tại phường 15. Cả hai đều lớn tuổi, bệnh nặng và bị lú lẫn, không thể tự chăm sóc bản thân. Vậy là chị Thủy phải trở về nhà để chăm nom. Do hoàn cảnh khó khăn, chạy xe ôm không có nhiều tiền nên chị Thủy phải vay mượn khắp nơi để trang trải cuộc sống. Trước bệnh tình của cha mẹ, chị Thủy đã đến TAND quận 10 xin tuyên cả hai cụ mất năng lực hành vi dân sự. Tháng 7-2008, TAND quận 10 có phán quyết chấp nhận yêu cầu của chị Thủy. Chị Thủy cũng đã làm thủ tục để được công nhận là người giám hộ của cha mẹ mình.
Tháng 3-2009, mẹ chị Thủy qua đời, không để lại di chúc. Sau khi làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế, chị Thủy và cha đồng đứng tên trên giấy hồng. Phần của người cha có ghi chú chị Thủy là người giám hộ. Muốn trả hết nợ và tìm mua một nơi ở khác cho cả gia đình và chữa bệnh cho cha, chị Thủy quyết định bán nhà. Tìm được người mua, chị Thủy đến Phòng Công chứng số 4 để chứng nhận hợp đồng mua bán nhưng nơi này từ chối chứng nhận. Theo chỉ dẫn, chị Thủy đã làm tờ cam kết (được UBND phường chứng thực) với nội dung việc chị bán nhà và sử dụng số tiền phải đảm bảo quyền lợi cho người cha. Nhưng sau đó Phòng Công chứng số 4 lại yêu cầu UBND phường 15 phải cử người giám sát chị Thủy. Ngặt nỗi, UBND phường 15 lại không giải quyết.
Theo các điều 67, 68, 69 Bộ luật Dân sự, khi giám hộ cho người mất năng lực hành vi dân sự, người giám hộ được quyền đại diện thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản của người giám hộ vì lợi ích của người này. Tuy nhiên, việc bán hoặc các giao dịch khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ. Người giám sát việc giám hộ chính là người thân thích của người được giám hộ. Trường hợp không có những người này thì UBND phường sẽ cử người giám sát việc giám hộ. Vậy tại sao UBND phường 15 không cử người giám sát việc giám hộ của chị Thủy?
Làm việc với phóng viên chiều 11-11, đại diện UBND phường 15, quận 10 trả lời: “Trước giờ phường chưa gặp trường hợp nào như chị Thủy nên chưa biết phải thực hiện như thế nào. Vì chưa có văn bản hướng dẫn nên phường không biết phải lập hồ sơ ra sao và cũng không biết cử ai là người giám sát. Phường đã đề nghị cấp trên hướng dẫn”.
Ông Hồng Văn Hải, Phó phòng Hộ tịch-Lý lịch tư pháp-Quốc tịch, Sở Tư pháp TP.HCM, cho biết: “Liên quan đến việc giám hộ, Sở cũng nhận được nhiều thắc mắc của các nơi. Dù Bộ luật Dân sự có quy định nhưng Nghị định số 158 ngày 27-12-2005 của Chính phủ (về đăng ký và quản lý hộ tịch) không hướng dẫn cụ thể. Sở đã kiến nghị Bộ Tư pháp cần có quy định rõ hơn về việc này”. Với trường hợp cụ thể của chị Thủy, ông Hải cho rằng “nếu xác minh thấy hoàn cảnh của người dân đúng như vậy thì phòng công chứng có thể linh động chứng nhận”.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Trí Hòa, Trưởng phòng Công chứng số 4, dứt khoát: “Trường hợp này không thể linh động vì luật đã quy định phải có người giám sát việc giám hộ. Nếu khó giao trách nhiệm cho phường cử người giám sát thì chị Thủy cần tìm người thân thích thuộc hàng thừa kế theo pháp luật của người được giám hộ. Nếu không có người thuộc hàng thừa kế thứ nhất thì có thể tìm người thừa kế thuộc các hàng thứ hai, thứ ba. Chỉ cần có một người thừa kế đứng ra giám sát (được phường chứng thực chữ ký) là được”. “Chính vì cha tôi đã già và không còn ai là người thân thích nên tôi mới trông cậy vào việc giải quyết của phường. Giờ phường không làm được, phòng công chứng lại bảo tôi tìm bằng được người thân thích của cha tôi thì biết chừng nào tôi mới bán được nhà?” - chị Thủy bật khóc khi nghe phóng viên nói lại hướng dẫn trên của ông Hòa.


File đính kèm