I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Lao động có bài Kiện trốn đóng BHXH như “kiến kiện củ khoai”. Bài báo phản ánh: Tình trạng trốn đóng BHXH gây thiệt hại quyền lợi cho CNLĐ đến nay đã trở thành “đại dịch”, vì hầu hết các tỉnh, thành đều xảy ra với số tiền lên tới gần 10.000 tỉ đồng. Nhưng quan ngại nhất, giải pháp được xem là cứu cánh hiện nay là kiện DN trốn đóng BHXH, đã không hiệu quả. Vì thế, nhiều cán bộ ngành BHXH than thở: Kiện trốn đóng BHXH như “kiến kiện củ khoai”.
Ông Nguyễn Hùng Oanh - Giám đốc BHXH Q.Gò Vấp (TPHCM) - cho biết, BHXH quận đang quản lý 3.037 đơn vị, và số DN trốn đóng từ 3 tháng trở lên là 851 (tương ứng trên 28%) với số tiền nợ là 37,4 tỉ đồng. BHXH quận đã khởi kiện hàng chục DN nhưng số tiền thu được qua các vụ kiện chỉ khoảng 10%. Tình trạng này cũng tương tự ở khắp các quận, huyện của TPHCM. Theo báo cáo của phòng thu, BHXH TPHCM, đến 31.5, chỉ riêng khối DN có 15.120 đơn vị trốn đóng xấp xỉ 1.366 tỉ đồng.
Toàn TPHCM đã khởi kiện 1.451 DN, với số tiền trốn đóng 444,6 tỉ đồng. Số vụ kiện đã được xét xử và có bản án là 382 DN (bằng 26,3% số vụ khởi kiện), với số tiền nợ theo đơn khởi kiện là 162,67 tỉ đồng. Số tiền thu hồi được khi có bản án 48,86 tỉ đồng, so với tổng số tiền các DN trốn đóng (1.366 tỉ đồng) thì qua các vụ kiện, BHXH mới chỉ thu hồi được gần 3,6%.
Còn ông Bùi Huy Phong - Giám đốc BHXH Bình Dương - cho biết, tổng số DN trốn đóng từ 3 tháng trở lên là 906 với số tiền 288,6 tỉ đồng. BHXH tỉnh đã khởi kiện 114 DN trốn đóng trên 49 tỉ đồng. Số vụ án đã được thi hành án là 57, với số tiền thu được là 12,3 tỉ đồng, tương đương 4,2% tổng số tiền các DN trốn đóng.
Theo bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh - Phó phòng thu BHXH TPHCM - có những vụ hơn 1 năm sau khi khởi kiện, TAND mới xét xử, lúc này DN chưa trả tiền trốn đóng cũ thì đã phát sinh số tiền trốn đóng mới. Chưa kể, do thời gian kiện tụng kéo dài, DN đã chuyển trụ sở đi nơi khác mà không thông báo với cơ quan chức năng. Điển hình như Cty TNHH thang máy Nam Trí. Trước đây, Cty này đóng trụ sở ở Q.6. BHXH Q.6 đã 2 lần khởi kiện Cty Nam Trí. Sau đó Cty “mất tích”, khiến vụ việc rơi vào bế tắc. Truy tìm mãi mới biết Cty Nam Trí đã chuyển về Q.Bình Tân. Tháng 12.2013, BHXH Q.6 phải khởi kiện Cty Nam Trí lần 3, để đòi số tiền trốn đóng BHXH lúc này lên tới 663 triệu đồng (và đến tháng 5.2014, số tiền này đã tăng lên là 713 triệu đồng). Một cán bộ BHXH TPHCM than thở: “Với nhiều DN, khi TAND xét xử thì DN đã “cạn kiệt”, không còn khả năng để thanh toán. Chính vì thế, số tiền thu hồi được rất khiếm tốn!”.
Theo ông Nguyễn Hùng Oanh, cán bộ BHXH đi xác minh điều kiện thi hành án cũng gặp rất nhiều khó khăn, DN trốn đóng BHXH cố tình tránh né, cung cấp số tài khoản sai hoặc rỗng... Thậm chí có trường hợp, cán bộ BHXH xác minh thấy tài khoản DN trốn đóng BHXH đủ khả năng thanh toán tiền theo bản án. Nhưng khi chấp hành viên đến xác minh lại thì DN đã rút hết tiền. Lúc này, cơ quan thi hành án trả hồ sơ cho BHXH với lý do, DN không đủ khả năng để thực hiện bản án. Chưa hết, nhiều DN trông thì “hoành tráng”, nhưng lại “rỗng ruột”, vì hầu hết các tài sản như nhà xưởng, xe cộ, máy móc đều đã được thế chấp, cấm cố...
Chính vì thế, nhiều ý kiến cho rằng, trong lúc chưa sửa đổi Bộ luật Hình sự bổ sung tội danh trốn đóng BHXH, thì ngành TAND cần có quy trình xét xử đặc biệt những vụ kiện trốn đóng BHXH. Đồng thời, việc thi hành án cần nhanh chóng, tránh trường hợp DN tẩu tán tài sản. Có như thế, quyền lợi của CNLĐ mới được bảo đảm.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài VKS quận bồi thường oan hơn 28 triệu đồng. Bài báo đưa tin: VKSND quận 1 (TP.HCM) vừa chuyển hơn 28 triệu đồng tiền bồi thường oan và hơn 1 triệu đồng tiền chậm thi hành án vào tài khoản của Cục Thi hành án dân sự TP.HCM để cơ quan này tiến hành chi trả cho bà Đỗ Thị Lộc, nhân vật trong bài “Mỏi mòn chờ bồi thường oan” đăng trên Pháp Luật TP.HCM ngày 29-5.
Như Pháp Luật TP.HCM đã thông tin, theo một bản án phúc thẩm năm 2013, VKS quận 1 phải bồi thường oan cho bà Lộc hơn 28 triệu đồng. Sau đó, VKS quận không tự nguyện thi hành với lý do chờ cấp kinh phí mới có tiền bồi thường. Trong khi đó, Cục Thi hành án dân sự TP.HCM cũng không thể cưỡng chế kê biên tài sản của VKS quận vì tài sản của cơ quan này thuộc diện không được kê biên theo Luật Thi hành án dân sự…
3. Báo Dân Việt có bài Về quy định đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam: Sẽ gây khó khăn, phiền hà cho kiều bào. Bài báo phản ánh: Chiều 17.6, Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam. Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, dự án luật này đã được các vị ĐB Quốc hội thảo luận kỹ vào chiều 6.6.2014 tại các tổ.
Qua bản tập hợp các ý kiến thấy các vị ĐB Quốc hội đều tán thành, nhất trí cao với việc cần thiết phải sửa đổi khoản 2, Điều 13 và khoản 3, Điều 26 của dự án luật để bảo đảm thực hiện quyền công dân có quốc tịch Việt Nam theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Các vị ĐB Quốc hội đề nghị nên viết theo hướng là không nên quy định thời hạn, không nên quy định việc đăng ký để công nhận có quốc tịch, mà chỉ để giải quyết các trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài không còn có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam. Tại phiên thảo luận, ĐB Hà Huy Thông (Thừa Thiên -Huế) cho rằng, nếu giữ thời hạn nhiều khả năng sẽ trở lại tình trạng như thế này sau 5 năm, thậm chí 10 năm, 20 năm. “Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 nếu không sửa kịp thời trước ngày 1.7.2014, nghĩa là 5 năm sau khi luật có hiệu lực sẽ ảnh hưởng đến hàng triệu người Việt Nam đang sinh sống, làm ăn ở nước ngoài, đặc biệt là có nguy cơ trở thành người không có quốc tịch trên trái đất này ở những nơi chỉ công nhận một quốc tịch hay ở những nơi người ta đang tìm cách hạn chế cấp quốc tịch cho người Việt Nam” - ĐB Thông nhấn mạnh.
Có cùng quan điểm trên, ĐB Bùi Văn Xuyền (Thái Bình) cho rằng quy định về đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam là phát sinh thêm các thủ tục hành chính, gây khó khăn và phiền hà cho kiều bào. ĐB Nguyễn Văn Cảnh (Bình Định) thì nêu vấn đề trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để bảo đảm quyền có quốc tịch của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Luật Quốc tịch đã được thi hành kể từ ngày 1.7.2009, có quy định: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày luật này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn 5 năm kể từ ngày luật này có hiệu lực, phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để giữ quốc tịch Việt Nam”. Tuy nhiên theo số liệu của Chính phủ, đến nay mới chỉ có trên 6.000 người thực hiện đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam. Cũng theo quy định của luật, thời hạn đăng ký giữ quốc tịch sẽ kết thúc vào ngày 1.7.2014, những người không đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam sẽ đương nhiên mất quốc tịch (khoản 3 Điều 26). Nếu như luật không sửa đổi, bổ sung kịp thời sẽ có khoảng 4,5 triệu kiều bào Việt Nam đang định cư ở các nước sẽ mất quốc tịch Việt Nam.
4. Báo Thời báo kinh tế Sài Gòn Online có bài Thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai: Những quy định dang dở. Bài báo phản ánh: Ngày 25-4-2014 liên cơ quan bao gồm Ngân hàng Nhà nước, Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT (Thông tư 01) hướng dẫn thủ tục thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai (NƠTL).
Một số quan chức, báo chí hồ hởi cho rằng Thông tư 01 sẽ giúp thúc đẩy thị trường bất động sản, giải phóng hàng tồn kho và những ách tắc về đầu ra hiện nay.
Có thật sự là như vậy hay nó chỉ là giải pháp nửa vời, làm rối thêm tình hình và gia tăng chi phí cho các bên tham gia?
Thông tư 01 quy định thủ tục thế chấp NƠTL theo hai bước: (1) công chứng hợp đồng thế chấp NƠTL tại cơ quan công chứng; (2) đăng ký thế chấp NƠTL tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc cơ quan tương đương (VPĐK QSDĐ). Thông tư quy định rõ luôn rằng nó không điều chỉnh giao dịch thế chấp NƠTL thông qua việc thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán NƠTL (điều 1.2(b)).
Trên thực tế, trước khi Thông tư 01 ra đời, các bên liên quan (bao gồm người mua nhà, ngân hàng và chủ đầu tư) đã có thể thế chấp NƠTL dưới hình thức thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán NƠTL theo Thông tư 08/2014/TT-BTP ngày 26-2-2014 của Bộ Tư pháp (Thông tư 08) và trước đó theo nội dung Công văn số 232 ngày 4-10-2007 của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp.
Thông tư 08 vẫn đang có hiệu lực thi hành. Như vậy, cùng một đối tượng là NƠTL, các bên liên quan sẽ có hai lựa chọn thế chấp theo hai văn bản và cơ quan đăng ký khác nhau. Thứ nhất là thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán NƠTL theo Thông tư 08. Việc đăng ký thế chấp này được tiến hành tại các trung tâm đăng ký giao dịch tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm (Trung tâm Đăng ký). Thứ hai là thế chấp NƠTL theo Thông tư 01. Việc thế chấp theo hai bước công chứng và đăng ký vừa nói trên.
Điều đáng quan tâm là việc thế chấp theo Thông tư 08 sẽ thuận lợi hơn vì không nhất thiết phải đáp ứng các điều kiện nêu tại điều 6 Thông tư 01 về thiết kế kỹ thuật, hoàn thiện móng của dự án, chủ đầu tư đã có chủ quyền...
Sao phải tốn công xây dựng Thông tư 01 làm gì khi đã có Thông tư 08 với hiệu lực tương đương lại có ưu điểm về hồ sơ giấy tờ, thời gian thực hiện và chi phí đăng ký?
Ngoài ra, phạm vi áp dụng đăng ký thế chấp theo Thông tư 08 rộng hơn nhiều so với Thông tư 01. Trong khi Thông tư 01 chỉ áp dụng thế chấp đối với căn hộ chung cư và nhà ở riêng lẻ của dự án nhà ở thì đối tượng thế chấp theo Thông tư 08 bao gồm: “Quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng góp vốn xây dựng nhà ở, hợp đồng hợp tác kinh doanh nhà ở (bao gồm cả nhà ở xã hội) của tổ chức, cá nhân mua của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản theo các dự án xây dựng được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán, góp vốn, hợp tác kinh doanh tài sản khác gắn liền với đất; quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ở gắn với hạ tầng kỹ thuật được chủ đầu tư dự án giao kết hợp pháp theo quy định của pháp luật về nhà ở...”.
Bên cạnh đó, Thông tư 01 còn đặt ra một rủi ro mới cho cá nhân, tổ chức tìm kiếm thông tin về tài sản thế chấp (TSTC). Cụ thể, nếu trước đây thông tin thế chấp NƠTL về nguyên tắc chỉ cần tra cứu với Trung tâm Đăng ký thì nay, bên tìm kiếm phải tìm kiếm cả với VPĐK QSDĐ. Không hiểu việc tìm kiếm thông tin tại VPĐK QSDĐ có được cải tiến khi Thông tư 01 có hiệu lực hay không. Nếu không, cứ theo quy trình hiện thời thì khá là mất thời gian và bất tiện. Tùy vào nội dung tra cứu mà kết quả tìm kiếm có thể mất một vài tuần. Tại nhiều địa phương, VPĐK QSDĐ còn yêu cầu bên tìm kiếm thông tin phải có giấy ủy quyền cho phép tìm kiếm thông tin từ chủ sử dụng đất!
Điều mong chờ nhất đối với Thông tư 01 là nó sẽ quy định về phạm vi và quy trình xử lý NƠTL được thế chấp như thế nào. Tuy nhiên, cũng như Thông tư 08, Thông tư 01 đã không giải quyết vấn đề này ngoại trừ một quy định rằng: “Khi nhận được thông báo của bên nhận thế chấp về việc nhà ở hình thành trong tương lai đang được thế chấp, doanh nghiệp kinh doanh bất động sản không được làm thủ tục chuyển nhượng nhà ở hình thành trong tương lai đó cho bất cứ tổ chức, cá nhân nào, nếu chưa có văn bản đồng ý của bên nhận thế chấp”.
Ngoài quy định trên, Thông tư 01 quy định việc xử lý TSTC sẽ theo quy định của pháp luật, được hiểu là sẽ theo Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (sửa đổi bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP, gọi chung là Nghị định 163). Theo Nghị định 163, bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có thể thỏa thuận rằng khi xảy ra sự kiện xử lý TSTC, bên nhận bảo đảm có thể bán cho bên thứ ba hoặc nhận chính tài sản bảo đảm thay thế cho nghĩa vụ bảo đảm hoặc theo thỏa thuận khác của các bên (điều 59). Nếu các bên không có thỏa thuận, TSTC sẽ được bán đấu giá. Quy định trên có thể hiểu và thi hành được trên thực tế đối với tài sản hiện hữu và thuộc sở hữu của bên bảo đảm. Tuy nhiên, đối với tài sản NƠLT vốn chưa tồn tại và đang chịu sự ràng buộc trong hợp đồng mua bán với chủ đầu tư, nội dung và quy trình xử lý TSTC loại này sẽ như thế nào? Nếu chủ đầu tư không hợp tác với bên nhận bảo đảm hay khi hợp đồng mua bán NƠTL giữa bên mua/bên thế chấp và chủ đầu tư bị hủy bỏ thì việc xử lý TSTC như thế nào là những câu hỏi không có lời giải.
Một vấn đề quan trọng khác là Thông tư 01 yêu cầu chủ đầu tư phải đăng ký rút bớt phạm vi TSTC với chủ nợ của mình trước khi bán NƠTL cho bên mua. Điều này là để tránh trường hợp một tài sản bị thế chấp hai lần bởi hai bên thế chấp khác nhau là chủ đầu tư (đối với toàn bộ dự án nhà ở) và bên mua (đối với NƠTL). Tuy nhiên, Thông tư 01 đã không giải quyết hai vấn đề. Thứ nhất, những dự án nhà ở hiện tại đang được thế chấp bởi hai bên thế chấp nói trên sẽ được xử lý ra sao? Thứ hai, nếu ngân hàng nơi nhận thế chấp tài sản là dự án nhà ở từ chủ đầu tư không đồng ý cho rút bớt NƠTL (để cho phép bên mua thế chấp cho chủ nợ khác) thì hậu quả ra làm sao? Bên mua NƠTL có được thế chấp NƠTL của mình hay không? Nếu không thì ai chịu hậu quả thiệt hại này?
II- THÔNG TIN KHÁC
Báo Đất Việt có bài Thứ trưởng sẽ phải giỏi ngoại ngữ bậc nhất Việt Nam?. Bài báo phản ánh: Bộ Nội vụ vừa công bố dự thảo Nghị định về tiêu chuẩn chức danh quản lý của công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước để lấy ý kiến góp ý của các tổ chức, cá nhận.
Theo dự thảo, ngoài một số tiêu chuẩn chung như có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng..., chức danh thứ trưởng cũng có các tiêu chuẩn riêng.
Trong đó, người nắm giữ chức danh thứ trưởng phải sử dụng được ít nhất 1 ngoại ngữ thông dụng như Anh, Nga, Pháp, Đức, Trung Quốc, trình độ cao cấp bậc 6, hoặc sử dụng được tiếng Lào, Campuchia hoặc tiếng dân tộc thiểu số.
Theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam (KNLNNVN) được Bộ Giáo dục-Đào tạo ban hành hồi tháng 1/2014, bậc 6 là bậc cao nhất của KNLNNVN, tương đương với bậc C2 Khung tham chiếu chung châu Âu.
Mô tả tổng quát năng lực ngoại ngữ trình độ cao cấp bậc 6, KNLNNVN ghi rõ: Có thể hiểu một cách dễ dàng hầu hết văn nói và viết. Có thể tóm tắt các nguồn thông tin nói hoặc viết, sắp xếp lại thông tin và trình bày lại một cách logic. Có thể diễn đạt tức thì, rất trôi chảy và chính xác, phân biệt được các ý nghĩa tinh tế khác nhau trong các tình huống phức tạp.
Đánh giá dự thảo Nghị định của Bộ Nội vụ, trả lời báo Infonet, ông Trịnh Ngọc Thạch, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội cho rằng: "Bộ Nội vụ quy định thứ thưởng phải có trình độ ngoại ngữ bậc 6 trở lên là quá viển vông, quy định như vậy thì lấy đâu ra thứ trưởng".
Ông Thạch chỉ rõ thực tế, hiện nay rất ít thứ trưởng của các bộ, ngành biết ngoại ngữ.
"Tôi biết một số bộ có thứ trưởng biết ngoại ngữ như Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Công thương còn hầu hết các thứ trưởng các bộ ngành khác đều không biết ngoại ngữ, trừ Bộ Ngoại giao thì tôi không nói, còn chứ lấy đâu ra thứ trưởng biết ngoại ngữ đến bậc 6 như Bộ Nội vụ đưa ra trong dự thảo".
Ngoài ra, thứ trưởng của ta đa số từ cấp vụ trưởng và các giám đốc sở từ tỉnh được bổ nhiệm lên thì lấy đâu ra ngoại ngữ.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội nhận định, đây là quy định của những người chuyên ngồi trong phòng lạnh, không có thực tế, Bộ Nội vụ đưa ra những quy định gì đều bị lách hết.
"Trước đây Bộ này cũng đưa ra quy định đầu vào công chức phải có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ khiến cho người ta đổ xô học để lấy bằng, thậm chí mua bằng. Tôi không chấp nhận được cách làm như vậy... Bộ Nội vụ phải cân nhắc cho kỹ trước khi ban hành, đừng để dư luận người ta phản đối vì không phù hợp", ông Thạch nói.