Luật tố cáo năm 2011 và một số kiến nghị hoàn thiện

23/12/2016
Trong số các quyền cơ bản của con người về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thì quyền tố cáo có vị trí quan trọng và liên quan chặt chẽ tới các quyền cơ bản khác. Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, quyền tố cáo đã sớm được ghi nhận tại Hiến pháp và trở thành một trong những quyền cơ bản của công dân. Thực hiện quyền tố cáo là phương thức để nhân dân giám sát và tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước. Vì vậy, giải quyết tố cáo là bảo đảm quyền dân chủ nhân dân, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phòng chống các hành vi tham nhũng, tiêu cực, góp phần phát triển kinh tế – xã hội.
Luật Tố cáo được Quốc hội thông qua ngày 11/11/2011, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2012. Các quy định của Luật Tố cáo đã góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, ổn định tình hình kinh tế xã hội. Để các quy định của Luật Tố cáo được thực thi có hiệu quả trong đời sống xã hội, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã kịp thời các văn bản hướng dẫn thi hành, như: Nghị định 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo (viết tắt Nghị định 76/2012/NĐ-CP); Thông tư 05/2013/TT-TTCP ngày 29/7/2013 của Thanh tra Chính phủ, quy định thẩm quyền, nội dung thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về tố cáo; Thông tư 06/2013/TT-TTCP ngày 30/9/2013 của Thanh tra Chính phủ, quy định quy trình giải quyết tố cáo;… Tuy nhiên, thực tiễn công tác giải quyết tố cáo cho thấy mặc dù các cơ quan nhà nước đã có cố gắng trong công tác giải quyết tố cáo nhưng hiệu quả giải quyết chưa cao. Có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân quan trọng là các quy định pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo có những điểm bất hợp lý, dẫn đến những khó khăn nhất định đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện.
Điều 30 Hiến pháp năm 2013quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”. Theo quy định này, khiếu nại, tố cáo không chỉ là quyền Hiến định của công dân Việt Nam (người có quốc tịch Việt Nam) mà còn là quyền con người, được tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ. Tố cáo là một trong những phương thức thực hiện quyền tự do, dân chủ, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, giảm bức xúc trong Nhân dân. Đây cũng là phương thức để Nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của mình và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân. Tố cáo đều hướng tới bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và bảo đảm pháp luật được thực thi nghiêm minh, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền.
Có thể thấy, nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức, Luật Tố cáo hiện hành chưa quy định rõ, mà theo đó, người có thẩm quyền giải quyết là người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức tại thời điểm có hành vi vi phạm bị tố cáo hay tại thời điểm phát sinh tố cáo để thống nhất trong việc thực hiện và giúp công dân gửi đơn tố cáo đến đúng cá nhân, cơ quan có thẩm quyền giải quyết; quy định về thời gian  giải quyết tố cáo tiếp cũng chưa đảm bảo tính khả thi trong thực hiện; quy định liên quan đến tố cáo nặc danh, bảo vệ người tố cáo, người cung cấp thông tin về vụ việc vi phạm pháp luật cũng chưa thật đồng bộ và thống nhất. Ngoài ra, việc xử lý kỷ luật các cá nhân, tập thể có sai phạm được phát hiện qua giải quyết tố cáo đang có bất cập trong việc áp dụng thời hiệu xử lý kỷ luật đối với công chức theo Điều 6[1] Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011của Chính phủ, quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức. Ngoài ra, theo Điều 7[2] Nghị định số 27/2012/NĐ-CP ngày 06/4/2012 của Chính phủ, quy định về xử lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi thường, hoàn trả của viên chức cũng gặp phải một số vướng mắc, bất cập. Trong phạm vi bài viết này, tác giả giới hạn trình bày những bất cập, vướng mắc từ những quy định hiện hành của Luật Tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, từ đó đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật Tố cáo.
1.Quy định của pháp luật hiện hành về tố cáo
Thứ nhất: Về xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo
Theo quy định tại khoản 7 Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011, giải quyết tố cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo. Giải quyết khiếu tố cáo cũng có thể được thực hiện qua nhiều lần ở các cấp khác nhau và thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn được quy định tại khoản 1 Điều 13 Luật Tố cáo: “Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp”. Trong trường hợp tố cáo về hành vi vi phạm nhiệm vụ, công vụ của Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã thì vụ việc không thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp xã mà thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch UBND cấp huyện. Đối với những tố cáo về hành vi phạm tội thì không thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước nói chung và của Chủ tịch UBND cấp xã nói riêng; trong trường hợp nhận được những tố cáo này thì Chủ tịch UBND cấp xã phải chuyển cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết theo thời hạn quy định.
Xoay quanh về thẩm quyền  giải quyết tố cáo, qua nghiên cứu tác giả thấy rằng: Tại khoản 1 Điều 12 Luật Tố cáo năm 2011, quy định: “Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết”. Nhưng, thực tế việc áp dụng xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo theo quy định còn chưa thống nhất, mà vướng mắc phát sinh do xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo tại thời điểm tố cáo hay tại thời điểm người bị tố cáo thực hiện hành vi bị tố cáo. Cụ thể như xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo trong các cán bộ, công chức đã về hưu nhưng bị tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật lúc đương nhiệm; hoặc trường hợp tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức tại thời điểm cán bộ, công chức đó giữ chức vụ thấp nhưng tại thời điểm tố cáo, cán bộ, công chức này đã giữ chức vụ cao hơn. Chẳng hạn với trường hợp, người bị tố cáo là Chủ tịch UBND cấp xã đã được bổ nhiệm lên Chủ tịch UBND cấp huyện thì người có thẩm quyền giải quyết tố cáo là Chủ tịch UBND cấp huyện hay Chủ tịch UBND cấp tỉnh?
Ngoài ra, khoản 2 Điều 13 Luật Tố cáo hiện hành, quy định “Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện và cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.” Khái niệm “bổ nhiệm, quản lý trực tiếp” quy định này thực tế đang còn có những cách hiểu khác nhau, chẳng hạn đối với cán bộ, công chức thuộc cơ quan chuyên môn  thuộc UBND cấp huyện thì ai là người có thẩm quyền giải quyết? Điều này gây ra lúng túng trong xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo, do đó cần có các quy định hướng dẫn cụ thể.
Thứ hai: Quy định về thời hiệu tố cáo
Hiện nay có nhiều đơn thư tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức đã xảy ra khá lâu, xét thấy hành vi vi phạm đó không còn tính nguy hiểm cho xã hội nữa, nhưng cơ quan nhà nước vẫn phải thụ lý và giải quyết, dù rằng kết quả thẩm tra, xác minh cho thấy không thể truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc xử lý vi phạm hành chính đối với đối tượng bị tố cáo, do đã hết thời hiệu xử lý theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Điều này không chỉ gây tốn kém, lãng phí trong quá trình giải quyết tố cáo, mà còn tạo ra tâm lý “hoài nghi” của người tố cáo. Thực tế này, xuất phát từ Luật Tố cáo hiện hành không quy định về thời hiệu tố cáo, dù Bộ Luật hình sự và Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành đều có quy định về thời hiệu. Do vậy, để tạo sự tương thích trong hệ thống pháp luật, thiết nghĩ cũng cần bổ sung quy định về thời hiệu tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật mà chưa phải là tội phạm trong lĩnh vực hành chính để phù hợp với khoản 1[3] Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Cụ thể, khi sửa đổi, bổ sung Luật Tố cáo năm 2011 về thời hiệu giải quyết tố cáo, như sau:
Điều… Thời hiệu tố cáo
1). Thời hiệu tố cáo vi phạm hành chính là 01 năm, trừ các trường hợp sau:
Vi phạm hành chính về kế toán; thủ tục thuế; phí, lệ phí; kinh doanh bảo hiểm; quản lý giá; chứng khoán; sở hữu trí tuệ; xây dựng; bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, hải sản; quản lý rừng, lâm sản; điều tra, quy hoạch, thăm dò, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên nước; thăm dò, khai thác dầu khí và các loại khoáng sản khác; bảo vệ môi trường; năng lượng nguyên tử; quản lý, phát triển nhà và công sở; đất đai; đê điều; báo chí; xuất bản; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh hàng hóa; sản xuất, buôn bán hàng cấm, hàng giả; quản lý lao động ngoài nước thì thời hiệu tố cáolà 02 năm.
2). Thời điểm để tính thời hiệu tố cáo vi phạm hành chính quy định tại khoản 1 Điều này được quy định như sau:
Đối với vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm.
Đối với vi phạm hành chính đang được thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm.”
Thứ ba: Quy định về thời hạn giải quyết tố cáo
Điều 21 Luật Tố cáo năm 2011 quy định thời hạn giải quyết tố cáo, như sau:
“1. Thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết là 90 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo.
2. Trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có thể gia hạn giải quyết một lần nhưng không quá 30 ngày; đối với vụ việc phức tạp thì không quá 60 ngày.”
Theo quy định này thì thời hạn giải quyết tố cáo ít nhất là 60 ngày và nhiều nhất là 150 ngày kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, thực tế cho thấy không ít vụ việc tố cáo có nội dung phức tạp, thời gian xảy ra đã lâu, phải xác minh tại nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị, nhiều địa phương, dù đã hết thời gian được phép gia hạn thậm chí đã trễ từ 02 đến 03 tháng nhưng vẫn chưa thu thập đủ tài liệu cần thiết để giải quyết thấu đáo nội dung tố cáo của công dân. Như vậy, yêu cầu đặt ra việc giải quyết tố cáo theo đúng thời hạn như pháp luật quy định với những trường hợp đặc biệt gặp nhiều khó khăn. Do đó, thiết nghĩ cần phải có quy định bổ sung về gia hạn thời hạn giải quyết tố cáo, đặc biệt nới rộng thời hạn giải quyết tố cáo đối với những vụ việc tố cáo phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành để đảm bảo việc giải quyết tố cáo phù hợp hơn với thực tiễn. Từ đó, tác giả đề xuất, bổ sung thêm nội dung như đã đề cập vào Luật Tố cáo khi sửa đổi, bổ sung. Điều 21 Luật Tố cáo năm 2011, sau khi được bổ sung, viết lại như sau:
“1. …
  2. Trong trường hợp cần thiết phải gia hạn thời hạn giải quyết tố cáo với vụ việc phức tạp, thẩm quyền và thời gian gia hạn như sau:
a) Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có thể gia hạn giải quyết lần đầu nhưng không quá 30 ngày; đối với vụ việc phức tạp thì không quá 60 ngày.;
b) Trường hợp phải gia hạn lần thứ hai, thì trong thời hạn 05 ngày làm việc trước khi hết thời hạn gia hạn lần thứ nhất, quyết định gia hạn lần thứ hai giải quyết tố cáo của cấp trên trực tiếp người có thẩm quyền giải quyết tố cáo, được gửi đến người tố cáo; thời hạn gia hạn là 60 ngày. Trường hợp đặc biệt, được gia hạn đến lần thứ ba, thời hạn gia hạn tối đa 60 ngày.
Thứ tư: Quy định về giải quyết tố cáo tiếp
Điểm b và điểm c khoản 2 Điều 27 Luật Tố cáo năm 2011,quy định: “Trường hợp việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cấp dưới trực tiếp là đúng pháp luật thì không giải quyết lại, đồng thời thông báo cho người tố cáo về việc không giải quyết lại và yêu cầu họ chấm dứt việc tố cáo; Trường hợp việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp là không đúng pháp luật thì tiến hành giải quyết lại theo trình tự quy định tại Điều 18[4] của Luật này.”.
Tuy nhiên, trên thực tế rất khó để xác định được “việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cấp dưới trực tiếp là không đúng pháp luật” hoặc “việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp là không đúng pháp luật” nếu như không xác minh, xem xét vụ việc cụ thể đó. Mặt khác, tại khoản 2 Điều 27 Luật này quy định chỉ trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được tố cáo tiếp phải xác định được vụ việc đó được giải quyết đúng pháp luật hoặc không đúng pháp luật là không khả thi trên thực tế. Thực tế có rất nhiều địa phương đã vi phạm về thời hạn này. Do đó, cần phải có quy định hướng dẫn cụ thể về vấn đề này theo hướng quy định cụ thể mức độ xem xét vụ việc như thế nào để xác định được vụ việc đó đã được giải quyết đúng hay không đúng pháp luật, quy định thời hạn mang tính linh hoạt hơn. Theo tác giả, căn cứ vào tình hình thực tiễn giải quyết vụ việc tố cáo tiếp thời gian qua, để khắc phục “nguy cơ” vi phạm về thời hạn giải quyết việc tố cáo tiếp, khoản 2 Điều 27 Luật Tố cáo sau khi sửa đổi, bổ sung được viết lại như sau: Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được tố cáo tiếp, người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp xem xét, xử lý như sau:…”
Thứ năm: Quy định về tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ
Pháp luật tố cáo không quy định cụ thể đối với xử lý đơn tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ, nếu như đơn có nội dung rõ ràng, người tố cáo đã cung cấp đầy đủ thông tin, tài liệu hoặc các bằng chứng khác được kiểm chứng xác thực thì cơ quan có thẩm quyền có thể thụ lý để giải quyết nhằm bảo vệ lợi ích công bằng và đáp ứng yêu cầu phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật. Cần thấy rằng, việc người tố cáo không ghi rõ thông tin về họ khi viết đơn, cung cấp thông tin, tài liệu tố cáo gửi đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết, bởi có một lý do xuất phát từ nguyên nhân khách quan, đó là, người tố cáo sự bị trả thù. Trong khi pháp luật về tố cáo hiện hành của Nhà nước ta hiện chưa có cơ chế hữu hiệu, khả thi bảo đảm sự an toàn tuyệt đối cho bản thân người tố cáo, gia đình, người thân của họ cũng như mọi sự an toàn khác. Đây là một thực tế, thiết nghĩ nhà làm luật cần nghiên cứu để quy định cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
Tham khảo kinh nghiệm của Singapore, mà theo đó, pháp luật có quy định cụ thể các hình thức tố cáo, như: gửi đơn hoặc qua điện thoại. Tố cáo có danh, thường nhận được từ các tổ chức hay các cơ quan. Tố cáo nặc danh thường nhận được từ bức thư không có tên gửi qua đường bưu điện hoặc do điện thoại từ quần chúng nhân dân chuyển cho nhân viên trực ban. Hay ở Malaixia, cơ quan chuyên trách chống tham nhũng có trách nhiệm tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin tố cáo về tham nhũng thông qua đơn thư, tố giác nặc danh; đơn thư chính thức của công dân; thông tin của các cơ quan nhà nước. Cơ quan chuyên trách này tiến hành xác minh số liệu để xem xét có đủ cơ sở tiến hành điều tra, xem xét xử lý vụ việc hay không.
Ở nước ta, trên thực tế nhiều vụ việc tố cáo tuy không rõ họ, tên địa chỉ, bút tích của người tố cáo vẫn được một số cơ quan xem xét, giải quyết hoặc một số trường hợp thì không xem xét. Thực tiễn trên gây ra sự thiếu thống nhất trong hoạt động áp dụng pháp luật. Thiết nghĩ, Nhà nước ta cần công nhận đối với tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị phát hiện và xử lý, đặc biệt đối với những hành vi tham nhũng.
Dù việc bảo vệ người tố cáo đã được Luật Tố cáo năm 2011 và Nghị định số 76/20012/NĐ-CP quy định. Tuy nhiên, quy định “khi có căn cứ cho rằng việc tố cáo có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe, xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm...” còn rất chung chung, khó xác định hành vi nào thì được coi là có căn cứ?. Bởi quy định này không liệt kê hoặc định lượng ở mức độ, biểu hiện, hành vi nào thì được coi là “có căn cứ”. Vì vậy, trên thực tế có thể dẫn đến một trong hai tình huống sau:
Một là, việc tố cáo chưa thực sự có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe; chưa thực sự có thể xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm... của người tố cáo và người thân thích của người tố cáo nhưng khi được yêu cầu, người có thẩm quyền, trách nhiệm vẫn quyết định áp dụng các biện pháp bảo vệ.
Hai là, tình huống thực sự rất cần phải bảo vệ người tố cáo nhưng có thể do quan điểm chưa đủ “căn cứ” nên người có thẩm quyền, trách nhiệm chưa kịp thời áp dụng các biện pháp bảo vệ dẫn đến hậu quả việc bảo vệ người tố cáo không đạt yêu cầu theo quy định.
Ngoài ra, chưa có quy định cụ thể về việc phối hợp giữa các cơ quan trong việc bảo vệ người tố cáo cũng là nguyên nhân dẫn đến việc các quy định về bảo vệ người tố cáo chưa thật sự đi vào cuộc sống, chưa thật sự tạo nên thiết chế khiến người tố cáo yên tâm, dẫn đến vẫn còn tố cáo nặc danh, mạo danh còn nhiều.
Về quan hệ phối hợp giữa người giải quyết tố cáo và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong bảo vệ người tố cáo: Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 11 Luật Tố cáo năm 2011: Áp dụng các biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan chức năng áp dụng các biện pháp để bảo vệ người tố cáo, người thân thích của người tố cáo, người cung cấp thông tin có liên quan đến việc tố cáo” và Nghị định 76/2012/NĐ-CP, trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo trước hết thuộc về người giải quyết tố cáo, sau đó là trách nhiệm của các cơ quan phối hợp như cơ quan quản lý người tố cáo tại nơi công tác, UBND địa phương nơi người tố cáo cư trú, cơ quan công an có thẩm quyền và các cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan khác. Về nguyên tắc, việc quy định như vậy cơ bản khắc phục được tình trạng người tố cáo “phải tự đi tìm người bảo vệ mình”, hạn chế được khả năng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm bảo vệ người tố cáo. Tuy nhiên, nếu việc phối hợp giữa người giải quyết tố cáo và các cơ quan, tổ chức có liên quan không tốt, thì việc bảo vệ người tố cáo vẫn khó có thể đạt yêu cầu trên thực tiễn, nhất là trong các tình huống bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các quyền nhân thân khác của người tố cáo. Chẳng hạn, khoản 2 Điều 14 Mục 2 Nghị định 76/2012/NĐ-CP quy định: “Trong quá trình giải quyết tố cáo nếu có căn cứ cho thấy có nguy cơ gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo thì người giải quyết tố cáo có trách nhiệm chỉ đạo hoặc phối hợp với cơ quan công an nơi người được bảo vệ cư trú, làm việc, học tập hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ và thông báo cho người được bảo vệ biết”. Thực hiện quy định này có thể nảy sinh hai vấn đề:
Vấn đề thứ nhất, việc xác định “cơ quan công an nơi người được bảo vệ cư trú, làm việc, học tập” là cơ quan cấp nào? Cấp xã, cấp huyện, hay cấp tỉnh? Vấn đề này cũng sẽ là một lúng túng cho người giải quyết tố cáo khi yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ.
Vấn đề thứ hai, trên thực tế, rất hiếm khi người giải quyết tố cáo đồng thời là người trực tiếp xác minh nội dung tố cáo mà thông thường là giao cho cơ quan thanh tra thành lập đoàn xác minh cho nên khi người tố cáo có căn cứ cho rằng mình có thể bị gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe… thì họ thường sẽ thông báo và yêu cầu đến người xác minh. Sau đó, người xác minh báo cáo lại người giải quyết tố cáo tiến hành chỉ đạo hoặc phối hợp với cơ quan công an nơi người cần được bảo vệ cư trú, làm việc, học tập hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ. Trong những trường hợp trên, không phải lúc nào việc chỉ đạo hoặc phối hợp với một cơ quan không cùng trong một ngành đều có thể diễn ra suôn sẻ, kịp thời, đặc biệt là trong các tình huống phải khẩn trương bố trí lực lượng, phương tiện, công cụ bảo vệ, tạm thời di chuyển người được bảo vệ đến nơi an toàn…
2. Một số kiến nghị khác
Bên cạnh những kiến nghị như vừa trình bày ở phần trên, để tiếp tục khắc phục những hạn chế, bất cập khác của pháp luật về tố cáo hiện hành, người viết đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét mấy nội dung sau:
- Hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với những cán bộ, công chức đã nghỉ hưu hay được điều chuyển, bổ nhiệm  vào những vị trí, chức vụ công tác khác;
- Quy định cụ thể hơn những trường hợp nào thì được coi việc tố cáo có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe, xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm và trách nhiệm phối hợp cụ thể để thực sự bảo vệ được người tố cáo. Đó là tình trạng sau khi nộp đơn tố cáo những sai phạm của lãnh đạo, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tiêu cực vì lợi ích nhóm, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, lãng phí,… người tố cáo bị phân biệt đối xử, bị cô lập, trù dập! Thậm chí điều động, chuyển công tác người tố cáo với lý do “gây mất đoàn kết nội bộ”?! Thực tế này không phải là ít, tạo ra tâm lý “ngao ngán”, ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần đấu tranh chống tiêu cực của một bộ phận cán bộ, công chức, người dân hiện nay.
- Hoàn thiện các quy định pháp luật về mối quan hệ giữa các cơ quan chức năng giải quyết tố cáo, mà theo đó:
i). Mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong việc giải quyết tố cáo.Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, các cơ quan tư pháp cũng nhận được nhiều nguồn thông tin về hành vi phạm pháp luật, trong đó có “kênh” đơn, thư tố cáo. Vì vậy, cần phải nghiên cứu và hoàn thiện quy định pháp luật  về mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan thanh tra và cơ quan điều  tra để nhằm có sự phối hợp chặt chế để giải quyết những vấn đề phát sinh thuộc trách nhiệm của mình. Để phù hợp với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Pháp luật thanh tra cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện theo hướng quy định trong Luật Thanh tra một chế định độc lập về mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan thanh tra với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong việc xử lý đơn, thư tố cáo, việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm với những nội dung cơ tương tư như quan hệ giữa cơ quan thanh tra với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát.
ii). Mối quan hệ giữa cơ quan hành chính với cơ quan, tổ chức khác trong việc giải quyết tố cáo.
Để nâng cao hiệu quả giải quyết tố cáo phù hợp với Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014; Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Luật Mặt trận Tổ quốc năm 2015, Luật Tố cáo cần hoàn thiện theo hướng: Quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc tiếp nhận, xử lý, chuyển đơn, thư tố cáo; trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc tiếp nhận, giải quyết đơn thư tố cáo do cơ quan quyền lực nhà nước chuyển đến; xử lý đơn thư tố cáo do Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội chuyển đến; hoàn thiện những quy định về giám sát việc giải quyết tố cáo như: đối tượng giám sát, phương thức giám sát, chế độ trách nhiệm trong việc thực hiện những kiến nghị, yêu cầu giám sát...
- Chính phủ cần ban hành Nghị định quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực tố cáo làm cơ sở đấu tranh, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, nhất là đối với các đối tượng lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để gây rối trật tự trị an, xúc phạm cán bộ, công chức, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các cơ quan nhà nước.
 
ThS.LS Lê Văn Sua
 
[1] Điều 6. Thời hiệu xử lý kỷ luật
1. Thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng, kể từ thời điểm công chức có hành vi vi phạm pháp luật cho đến thời điểm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra thông báo bằng văn bản về việc xem xét xử lý kỷ luật.
2. Khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật của công chức, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền xử lý kỷ luật quy định tại Điều 15 Nghị định này phải ra thông báo bằng văn bản về việc xem xét xử lý kỷ luật. Thông báo phải nêu rõ thời điểm công chức có hành vi vi phạm pháp luật, thời điểm phát hiện công chức có hành vi vi phạm pháp luật và thời hạn xử lý kỷ luật.
[2] Điều 7. Thời hiệu xử lý kỷ luật
1. Thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng, kể từ thời điểm viên chức có hành vi vi phạm pháp luật cho đến thời điểm người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập có thẩm quyền ra thông báo bằng văn bản về việc xem xét xử lý kỷ luật.
2. Khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật của viên chức, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập có thẩm quyền xử lý kỷ luật quy định tại Điều 14 Nghị định này phải ra thông báo bằng văn bản về việc xem xét xử lý kỷ luật. Thông báo phải nêu rõ thời điểm viên chức có hành vi vi phạm pháp luật, thời điểm phát hiện viên chức có hành vi vi phạm pháp luật và thời hạn xử lý kỷ luật.
[3] Điều 6. Thời hiệu xử lý vi phạm hành chính
1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được quy định như sau:
a) Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, trừ các trường hợp sau:
Vi phạm hành chính về kế toán; thủ tục thuế; phí, lệ phí; kinh doanh bảo hiểm; quản lý giá; chứng khoán; sở hữu trí tuệ; xây dựng; bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, hải sản; quản lý rừng, lâm sản; điều tra, quy hoạch, thăm dò, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên nước; thăm dò, khai thác dầu khí và các loại khoáng sản khác; bảo vệ môi trường; năng lượng nguyên tử; quản lý, phát triển nhà và công sở; đất đai; đê điều; báo chí; xuất bản; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh hàng hóa; sản xuất, buôn bán hàng cấm, hàng giả; quản lý lao động ngoài nước thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 02 năm.
Vi phạm hành chính là hành vi trốn thuế, gian lận thuế, nộp chậm tiền thuế, khai thiếu nghĩa vụ thuế thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về thuế;
b) Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính quy định tại điểm a khoản 1 Điều này được quy định như sau:
Đối với vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm.
Đối với vi phạm hành chính đang được thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm;
c) Trường hợp xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân do cơ quan tiến hành tố tụng chuyển đến thì thời hiệu được áp dụng theo quy định tại điểm a và điểm b khoản này. Thời gian cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý, xem xét được tính vào thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính.
d) Trong thời hạn được quy định tại điểm a và điểm b khoản này mà cá nhân, tổ chức cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.
 
[4] Điều 18. Trình tự giải quyết tố cáo
Việc giải quyết tố cáo được thực hiện theo trình tự sau đây:
1. Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo;
2. Xác minh nội dung tố cáo;
3. Kết luận nội dung tố cáo;
4. Xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo;
5. Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo.