Quy định của pháp luật về bán hàng đa cấp những bất cập và kiến nghị

21/11/2016
Không phủ nhận bán hàng đa cấp là một loại hình kinh doanh hiện đại, có những ưu thế nhất định và là một trong những cầu nối giữa nhà sản xuất với người tiêu dùng. Bản thân mô hình này không xấu, nhà sản xuất thay vì bỏ tiền ra Marketing và quảng cáo thì “lại quả” cho người tiêu dùng, khi họ mua hàng hoặc giới thiệu được người khác mua hàng. Hình thức hoạt động này sẽ là tốt nếu được dùng để bán các sản phẩm - dịch vụ có ích lợi cho người tiêu dùng, với giá cả hợp lý đúng với giá trị sử dụng.
1.Pháp luật quy định về bán hàng đa cấp ở một số nước
Trung Quốc cũng là quốc gia mà ở đó hoạt động bán hàng đa cấp biến tướng, mất kiểm soát. Hoạt động bán hàng đa cấp tuy được thừa nhận nhưng chỉ được thực hiện hạn chế theo Quy tắc quản lý bán hàng trực tiếp (Regulation on Direct selling administration) áp dụng từ 01/12/2005. Các quy định tại quy tắc này hạn chế sản phẩm được kinh doanh theo phương thức đa cấp là hàng tiêu dùng. Các doanh nghiệp muốn kinh doanh mô hình này bắt buộc phải có nhà máy sản xuất tại Trung Quốc. Việc quản lý bằng cách quy định sản phẩm bán hàng đa cấp phải được sản xuất tại Trung Quốc giúp cơ quan quản lý kiểm soát giá cả, chất lượng hàng hóa. Trung Quốc cũng yêu cầu các công ty nội địa hoặc nước ngoài muốn tham gia hoạt động bán hàng trực tiếp ở Trung Quốc phải nộp đơn xin cấp giấy phép bán hàng trực tiếp của Bộ Thương mại và phải đáp ứng các điều kiện như: Nhà đầu tư không có hồ sơ về hoạt động kinh doanh bất hợp pháp nghiêm trọng trong năm năm trước khi nộp đơn; đối với nhà đầu tư nước ngoài phải kinh doanh bán hàng trực tiếp tối thiểu là ba năm; vốn điều lệ đăng ký không thấp hơn 80 triệu nhân dân tệ, ký quỹ một khoản tiền vào một ngân hàng được chỉ định theo quy định của quy tắc này. Những quy định được ban hành nói trên là nhằm hạn chế các nguy cơ dẫn đến bán hàng đa cấp bất chính.
Ở Singapore, mức phạt cho hành vi bán hàng đa cấp bất chính có thể lên đến 200.000 USD. Người đã bị xử phạt hành chính mà còn tái phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chịu hình phạt năm năm tù giam. Tại Canada, một doanh nghiệp kinh doanh đa cấp bị quy kết vi phạm điều khoản kinh doanh của Luật Cạnh tranh mang tính chất lừa đảo có thể bị phạt 150.000 USD. Doanh nghiệp sai phạm sẽ bị buộc phải ký vào Lệnh cấm (Prohibition Order) được trình lên tòa án liên bang Canada. Theo đó, họ bị buộc phải kê khai mức thu nhập thực tế của các nhân viên của công ty trong một khoảng thời gian được ấn định, thông báo cho tất cả nhà phân phối và nhân viên công ty về vụ việc và không được tham gia bất kỳ hoạt động kinh doanh nào về hình thức kinh doanh đa cấp.
2.Quy định của pháp luật về bán hàng đa cấp ở nước ta và những hạn chế
Năm 2004, lần đầu tiên thuật ngữ “bán hàng đa cấp” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam tại khoản 11, Điều 3, Luật Cạnh tranh. Mặc dù là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên và có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh đối với hoạt động bán hàng đa cấp nhưng Luật Cạnh tranh năm 2004 chỉ đưa ra khái niệm về bán hàng đa cấp và quy định cấm một số hành vi bán hàng đa cấp bất chính mà chưa đưa ra cơ chế quản lý đối với hoạt động này.Tiếp sau đó, Chính phủ và Bộ Công thương cũng ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh một cách toàn diện đối với hoạt động này. Nghị định 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ, về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp, mà theo đó, chính thức thiết lập một cơ chế quản lý đối với hoạt động bán hàng đa cấp từ trung ương đến địa phương với sự tham gia của Bộ Công Thương (thông qua Cục Quản lý cạnh tranh) và Ủy ban nhân dân cấp  tỉnh (thông qua các Sở Công thương). Theo thống kê của Hiệp hội Bán hàng đa cấp VN, đến hết năm 2015 cả nước có 67 công ty được cấp phép bán hàng đa cấp, trong đó có 2 doanh nghiệp đã chấm dứt hoạt động nên hiện còn 65 doanh nghiệp, trong đó 11 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với số người tham gia mạng lưới này lên đến hơn 1,4 triệu người[1]. Tính đến tháng 9/2016, cả nước có 50 doanh nghiệp đủ giấy phép hoạt động.
Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý bán hàng đa cấp đã nhanh chóng bộc lộ một số bất cập, hoạt động bán hàng đa cấp xuất hiện ngày càng nhiều và biến tướng theo chiều hướng tiêu cực, nhiều chủ thể lợi dụng các khe hở của pháp luật để thực hiện các hành vi bất chính. Có thể kể đến như quy định tại Nghị định 110/2005/NĐ-CP thì doanh nghiệp chỉ phải báo cáo hoạt động lên Sở Công thương 6 tháng/lần nơi đăng ký kinh doanh mà không phải nơi hoạt động. Do đó, đã phần nào lý giải vì sao trong thời gian qua các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương không nắm vững hoạt động trên địa bàn mình. Từ những bất cập đó, ngày 14/5/2014, Chính phủ ban hành Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp thay thế cho Nghị định 110/2005/NĐ-CP. Nhiều nội dung được quy định trong Nghị định 42/2014/NĐ-CP theo hướng thắt chặt quản lý đối với hoạt động bán hàng đa cấp.
Thế nhưng, những tồn tại mà cơ chế trước đây để lại trong thực tế là rất lớn. Đó là, chế tài xử phạt còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe, cho nên các đối tượng sẵn sàng vì lợi nhuận mà chịu phạt để được tồn tại hoặc thiếu những nội dung quy định cụ thể trong hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động bán hàng đa cấp của cơ quan quản lý nhà nước theo thẩm quyền khi tiến hành hoạt động này. Cụ thể, mức phạt cao nhất đối với hành vi vi phạm về bán hàng đa cấp là 200 triệu đồng, theo Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 của Chính phủ, quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh là còn quá ít so với mức lợi nhuận thu về từ các hoạt động bất hợp pháp. Hơn nữa, theo Nghị định 71/2014/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính đối với lĩnh vực kinh doanh hàng đa cấp thì chỉ có mỗi Cục Quản lý Cạnh tranh (Bộ Công thương) là có thẩm quyền. Vì vậy, dù phát hiện ra sai phạm, đơn vị cũng phải chờ quyết định xử phạt từ Cục Quản lý Cạnh tranh, thủ tục phức tạp và tốn nhiều thời gian.

Thực tế, hoạt động đa cấp đang ngày càng lan rộng, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa song không chỉ công tác quản lý khó khăn mà ngay cả nhận thức của người dân cũng còn hạn chế. Trong khi đó, các công ty đa cấp lại đánh vào tâm lý muốn kiếm tiền nhanh, nhiều, không cần trình độ bằng cấp, làm ít hưởng nhiều… khiến nhiều người bị cuốn vào vòng xoáy và trở thành những “tín đồ” mê muội. Chính sự lỏng lẻo trong các quy định về bán hàng đa cấp đã khiến cho các doanh nghiệp lợi dụng khe hở trục lợi bất chính, đồng thời gây khó khăn cho công tác quản lý ở các địa phương. Việc Bộ Công thương giao cho các địa phương tiếp nhận thông báo bán hàng đa cấp của các doanh nghiệp trên địa bàn mà không cần đăng ký địa điểm hoạt động chẳng khác nào “thả gà ra đuổi”.
Về bản chất, bán hàng đa cấp không xấu, mà ngược lại đã mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, cho người tiêu dùng, đồng thời tạo được nhiều việc làm cho xã hội. Nhưng ngược lại, đặc tính của bán hàng đa cấp cũng khiến cách thức bán hàng này dễ dàng bị lợi dụng để lừa đảo nhất là trên những thị trường mà thông tin còn không đầy đủ và hiểu biết của người tiêu dùng về các hình thức bán hàng còn hạn chế. Vì vậy, làm thế nào để bảo vệ người tham gia bán hàng đa cấp không bị lợi dụng hay trục lợi đang là yêu cầu đặt ra trong thực tế hiện nay. Theo Luật Cạnh tranh, việc bán hàng đa cấp bị coi là bất chính khi hành vi bán hàng tổ chức theo kiểu mạng lưới đa cấp nhưng nhằm mục đích thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới. Các hành vi được liệt kê bao gồm: Yêu cầu người tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hóa ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp; Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại; Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp; Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia. Dù đã được pháp luật quy định chặt chẽ, nhưng trên thực tế vẫn có rất nhiều công ty bán hàng đa cấp vi phạm các quy định của pháp luật, tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm lừa đảo những người tham gia.
Mặt khác, do mẫu thông báo tiếp nhận doanh nghiệp bán hàng đa cấp được thống nhất từ Trung ương, trong đó không có quy định rõ doanh nghiệp phải ghi địa chỉ hoạt động cụ thể, thế nên nhiều doanh nghiệp “cố tình” bỏ trống mục này, thậm chí phần ghi “người liên hệ tại địa phương” cũng bị để trống. Đây chính là một trong những kẽ hở dẫn đến tình trạng lừa đảo trong kinh doanh đa cấp, mà nhiều địa phương không thể kiểm soát được.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ lừa đảo đa cấp hiện nay phải kể đến thông tin thị trường thiếu hoặc sai lệch. Một bộ phận không nhỏ người tiêu dùng không biết kinh doanh đa cấp là gì, những lĩnh vực nào được phép và những lĩnh vực nào không được phép. Vì thế mà nhiều công ty đã lợi dụng sự hạn chế này để lôi kéo người tham gia bằng hứa thưởng cao và những cơ hội làm giàu nhanh chóng, làm cho người dân tham gia một cách mù quáng. Vì những khoản sinh lời ảo nên cho dù vô tình hay cố ý khi đã tham gia những người tham gia không còn đường thoái vì đã trót nộp tiền, tiếc của nên đã lôi kéo, dụ dỗ bằng được những người khác cùng làm để mong gỡ gạc phần vốn của mình. Và cứ thế với cách làm này, nạn nhân mắc bẫy được tính theo cấp số nhân.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện
Từ những bất cập trên, thiết nghĩ cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền sớm xem xét sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật hiện hành trong lĩnh vực này theo hướng nâng mức xử phạt vi phạm hành chính để bảo đảm tính phòng ngừa, răn đe; bảo vệ quyền lợi của mình, tránh việc bị lôi kéo, lợi dụng để thu lợi bất chính của một số đối tượng, doanh nghiệp bán hàng đa cấp biến tướng trong thời gian qua, đòi hỏi những người muốn tham gia bán hàng đa cấp phải tự bảo vệ mình trước.
Thứ nhất, Bộ Công thương sớm sửa đổi Thông tư 24/2014/TT-BCT ngày 30/7/2014 cho phù hợp với Điều 33[2] của Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp và Điều 6[3] của Thông tư số 20/2015/TT-BKHĐT ngày 01/12/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp có quy định về “Địa điểm kinh doanh” của doanh nghiệp và cấp “Giấy chứng nhận đăng ký địa điểm kinh doanh” của doanh nghiệp.
Các hành vi vi phạm của các công ty bán hàng đa cấp thời gian qua chủ yếu là không thông báo với các cơ quan quản lý khi sửa đổi giấy chứng nhận bán hàng đa cấp; không thông báo với cơ quan quản lý Nhà nước khi thực hiện hoạt động khuyến mại; không cung cấp đầy đủ thông tin cho người tham gia mạng lưới; tổ chức hội nghị, hội thảo không đúng nội dung thông báo;...Do vậy, đề nghị sửa đổi khoản 1 Điều 5 Nghị định 71/2014/NĐ-CP về mức tiền phạt tối đa đối với hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh khác, theo hướng quy định mức tối đa phù hợp với khoản 1 Điều 23 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (phạt tiền đến 02 tỷ đồng đối với tổ chức).
Có biện pháp kiểm soát chặt chẽ chất lượng và giá bán các loại hàng hóa trong “Danh mục sản phẩm kinh doanh” theo phương thức đa cấp kèm theo Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp. Tính chất của bán hàng đa cấp rất phức tạp, khó kiểm soát, nguy cơ trục lợi rất lớn nếu không có khung chính sách quản lý chặt chẽ, do vậy, theo tác giả, Nhà nước sớm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng siết chặt, hạn chế cấp phép mới bán hàng đa cấp.
Cần kịp thời bổ sung quy định tạo cơ chế để cơ quan quản lý, cơ quan tư pháp liên quan có thể hỗ trợ thu hồi được khoản tiền mà những người tham gia vào hệ thống kinh doanh đa cấp trái phép đã mất.
Thứ hai: Người muốn tham gia bán hàng đa cấp trước hết cần phải nắm rõ quy định của pháp luật về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp để biết và bảo vệ quyền lợi chính đáng mà mình được hưởng. Nếu tham gia hoạt động bán hàng đa cấp của doanh nghiệp đã cấp Giấy chứng nhận hoạt động bán hàng đa cấp thì phải ký hợp đồng đúng với mẫu hợp đồng Công ty đã đăng ký với Cục Quản lý cạnh tranh. Cần phải cảnh giác trước các thông tin được đưa ra liên quan đến hàng hóa như công dụng của sản phẩm, về lợi ích khi tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp và cần lưu ý các khoản hoa hồng, tiền thưởng chi trả cho nhà phân phối phải xuất phát từ hoạt động bán hàng của doanh nghiệp và bản thân các nhà phân phối. Những dấu hiệu ban đầu để nhận biết một doanh nghiệp bán hàng đa cấp vi phạm pháp luật là mức trần chi trả hoa hồng, tiền thưởng và các lợi ích khác cho nhà phân phối lớn hơn 40% (mức cho phép tối đa là 40%). Trả hoa hồng cho người vào trước bằng cách lấy tiền của người vào sau mà không qua giao dịch mua bán hàng hóa.
Thứ ba, môi trường pháp lý cho hoạt động bán hàng đa cấp ở Việt Nam về cơ bản đã được hình thành. Song thực tế điều đó dường như chưa đủ để kiểm soát những biến tướng trong lĩnh vực này. Để bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng, các chế tài hình sự, hành chính đối với các hành vi sai phạm cần triệt để, đồng bộ hơn. Bên cạnh vai trò của cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương trong kiểm tra giám sát thường xuyên hơn, Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng cần chủ động phối hợp xử lý thông tin khi tiếp nhận phản ánh kịp thời hơn, thì Hiệp hội bán hàng đa cấp cũng phải chủ động phổ biến đưa các khuyến cáo sâu rộng đến hội viên.
Cơ quan quản lý nhà nước theo thẩm quyền cần đầy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật liên quan đến các hoạt động kinh doanh bán hàng đa cấp để mọi người dân có ý thức cảnh giác, tự bảo vệ mình trước các chiêu trò dụ dỗ, lừa đảo của loại hình bán hàng đa cấp biến tướng. Đặt biệt đối với những địa phương là vùng sâu, vùng xa, cơ hội của người dân tiếp cận thông tin không nhiều thì các hoạt động tuyên truyền có vai trò rất quan trọng, nhằm giúp mọi người dân có thể phân biệt được thế nào là các hình thức kinh doanh, thế nào là kinh doanh đa cấp chân chính và phân biệt được các hiện tượng lừa đảo trong kinh doanh. Có như vậy, các đối tượng mới khó lợi dụng thông tin sai lệch và những lợi ích ảo để lừa đảo người dân.
Thứ tư, tăng cường hoạt động giám sát, quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán hàng đa cấp, đẩy mạnh các hoạt động thanh kiểm tra. Khi phát hiện các doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người tiêu dùng và người tham gia bán hàng đa cấp thì phải kịp thời xử lý bằng các biện pháp nghiêm khắc nhất, thậm chí là đình chỉ, rút giấy phép hoạt động, tích cực phối hợp với cơ quan công an khẩn trương điều tra các doanh nghiệp có dấu hiệu lừa đảo. Đồng thời, nhanh chóng thông tin cho người dân về các doanh nghiệp có hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, cần có biện pháp hỗ trợ, hướng dẫn đối với các nạn nhân để bảo vệ quyền lợi của mình. Tăng cường hơn nữa hoạt động giám sát, phản ánh tiêu cực của các cơ quan báo chí. Trong thời gian qua, các cơ quan báo chí đã kịp thời phán ánh, tố giác các hành vi lừa đảo, vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp hoạt động đa cấp. Qua đó, giúp cho người dân có cái nhìn tương đối toàn diện về hoạt động bán hàng đa cấp hiện nay ở nước ta. Thời gian tới, có thể vẫn còn có doanh nghiệp vi phạm khi thực hiện các hoạt động bán hàng đa cấp với những thủ đoạn tinh vi hơn. Trong khi chờ đợi xử lý của các cơ quan chức năng thì báo chí vẫn là kênh thông tin được người dân tin tưởng phản ánh các hành vi vi phạm của doanh nghiệp
Thứ năm, đối với doanh nghiệp bán hàng đa cấp, tính minh bạch của doanh nghiệp và việc công khai phương thức bán hàng đa cấp của mình cần là tiêu chí thiết yếu hàng đầu. Nếu doanh nghiệp không minh bạch, vi phạm về công bố, công khai thông tin doanh nghiệp, sản phẩm, vi phạm các chế độ phúc lợi, quyền lợi người tiêu dùng, phương thức kinh doanh của mình... thì đó chính là những cơ sở để rút phép hoạt động của doanh nghiệp trước khi họ kịp gây ra hậu quả cho hội viên và người tiêu dùng.
 
Tóm lại:  Hoạt động bán hàng đa cấp tuy mới mẻ ở thị trường Việt Nam nhưng tại nhiều nước trong khu vực và trên thế giới nó đã có lịch sử khá lâu. Tuy vẫn còn những tranh cãi xung quanh mô hình này nhưng việc nó vẫn được duy trì, phát triển cũng minh chứng đây không phải hoạt động xấu. Để có thể thanh lọc thị trường, loại bỏ các loại hình bán hàng đa cấp biến tướng cần có sự đồng hành của các cơ quan chức năng, doanh nghiệp, hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng, hiệp hội bán hàng đa cấp và người tiêu dùng. Đối với người dân cần phải bình tĩnh hơn với những chiêu thức tinh vi, lách luật của một số người lợi dụng chính sách cởi mở của Nhà nước về phát triển kinh doanh, cần xem xét thận trọng khi tham gia vào các hoạt động kinh doanh bán hàng đa cấp.  
 
[1] http://tuoitre.vn/tin/kinh-te/20160229/tan-cua-nat-nha-vi-da-cap/1059112.html
[2] Điều 33. Đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện, thông báo lập địa điểm kinh doanh
1. Hồ sơ đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện:
Khi đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện, doanh nghiệp phải gửi Thông báo lập chi nhánh, văn phòng đại diện đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi đặt chi nhánh, văn phòng đại diện. Nội dung Thông báo gồm:
a) Mã số doanh nghiệp;
b) Tên và địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp;
c) Tên chi nhánh, văn phòng đại diện dự định thành lập;
d) Địa chỉ trụ sở chi nhánh, văn phòng đại diện;
đ) Nội dung, phạm vi hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện;
e) Thông tin đăng ký thuế;
g) Họ, tên; nơi cư trú, số Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác quy định tại Điều 10 Nghị định này của người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện;
h) Họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Kèm theo thông báo quy định tại khoản này, phải có
- Quyết định và bản sao hợp lệ biên bản họp của Hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, của chủ sở hữu công ty hoặc Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, của Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần, của các thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh về việc thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện;
- Bản sao hợp lệ quyết định bổ nhiệm người đứng đầu chi nhánh văn phòng đại diện;
- Bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân quy định tại Điều 10 Nghị định này của người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện.
2. Thông báo lập địa điểm kinh doanh:
Địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp có thể ở ngoài địa chỉ đăng ký trụ sở chính. Doanh nghiệp chỉ được lập địa điểm kinh doanh tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính hoặc đặt chi nhánh. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày quyết định lập địa điểm kinh doanh, doanh nghiệp gửi thông báo lập địa điểm kinh doanh đến Phòng Đăng ký kinh doanh. Nội dung thông báo gồm:
a) Mã số doanh nghiệp;
b) Tên và địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc tên và địa chỉ chi nhánh (trường hợp địa điểm kinh doanh được đặt tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi chi nhánh đặt trụ sở);
c) Tên, địa chỉ địa điểm kinh doanh;
d) Lĩnh vực hoạt động của địa điểm kinh doanh;
đ) Họ, tên, nơi cư trú, số Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác quy định tại Điều 10 Nghị định này của người đứng đầu địa điểm kinh doanh;
e) Họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đối với trường hợp địa điểm kinh doanh trực thuộc doanh nghiệp hoặc họ, tên, chữ ký của người đứng đầu chi nhánh đối với trường hợp địa điểm kinh doanh trực thuộc chi nhánh.
3. Khi nhận được hồ sơ hợp lệ của doanh nghiệp, Phòng Đăng ký kinh doanh nhập thông tin vào Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp để yêu cầu mã số chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Phòng Đăng ký kinh doanh cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện, cập nhật thông tin về địa điểm kinh doanh trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp có nhu cầu, Phòng Đăng ký kinh doanh cấp Giấy chứng nhận đăng ký địa điểm kinh doanh.
4. Trường hợp doanh nghiệp lập chi nhánh, văn phòng đại diện tại tỉnh, thành phố khác nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính, Phòng Đăng ký kinh doanh nơi chi nhánh, văn phòng đại diện đặt trụ sở gửi thông tin đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.
5. Việc lập chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp ở nước ngoài thực hiện theo quy định của pháp luật nước đó.
Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày chính thức mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài, doanh nghiệp phải thông báo bằng văn bản đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp đã đăng ký. Kèm theo thông báo phải có bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc giấy tờ tương đương để bổ sung thông tin về chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
[3] Điều 6. Đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh
1. Sau khi công ty nhà nước được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được chuyển đổi thành công ty cổ phần và ngược lại, doanh nghiệp tư nhân được chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn, các chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh của những doanh nghiệp nêu trên thực hiện đăng ký thay đổi nội dung đăng ký hoạt động theo quy định tại Điều 48 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP.
2. Đối với địa điểm kinh doanh trực thuộc chi nhánh, người ký thông báo lập địa điểm kinh doanh, thay đổi nội dung đăng ký hoạt động địa điểm kinh doanh, tạm ngừng, tiếp tục kinh doanh trước thời hạn đã thông báo, chấm dứt hoạt động địa điểm kinh doanh là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc người đứng đầu chi nhánh.
3. Việc cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện, Giấy chứng nhận đăng ký địa điểm kinh doanh thực hiện tương ứng theo quy định tại Điều 58 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP.
4. Việc chấm dứt hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp ở nước ngoài thực hiện theo quy định của pháp luật nước đó. Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày chính thức chấm dứt hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài, doanh nghiệp thông báo bằng văn bản đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Thông báo về việc chấm dứt hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp ở nước ngoài thực hiện theo mẫu II-23 ban hành kèm theo Thông tư này.