Thực hiện Hiệp định TPP: Cần sự hỗ trợ của nhà nước để tận dụng cơ hội của thị trường mới

16/03/2016
Hiệp định TPP, viết tắt từ tiếng Anh: Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement (Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương), là một hiệp định, thỏa thuận thương mại tự do giữa 12 quốc gia thành viên của TPP bao gồm: Úc, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Vietnam, Mỹ và Nhật Bản. Các quốc gia thành viên hiện tại của Hiệp định TPP chiếm 40% GDP của cả thế giới và 26% lượng giao dịch hàng hóa toàn cầu, với mục đích hội nhập nền kinh tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Quá trình đàm phán các bên thống nhất đạt một hiệp định với tiêu chuẩn cao, tham vọng, toàn diện và cân bằng, qua đó giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ việc làm, thúc đẩy sáng tạo, hiệu quả và tính cạnh tranh của các nền kinh tế.
Mục tiêu chính của Hiệp định TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên. Ngoài ra, Hiệp định TPP sẽ còn thống nhất nhiều luật lệ, quy tắc chung giữa các nước này, như: sở hữu trí tuệ, chất lượng thực phẩm, hay an toàn lao động…Hơn thế nữa, Hiệp định TPP sẽ đặt ra được các luật lệ quốc tế vượt qua cả phạm vi WTO như: chính sách đầu tư, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, kiểm soát các công ty nhà nước, chất lượng sản phẩm và lao động….Hầu hết các thỏa thuận quốc tế là về xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ.  Chính bản thân Hiệp định TPP sẽ tạo ra các điều luật quốc tế có khả năng điều chỉnh chính sách và hướng đi của luật pháp trong từng quốc gia thành viên.  Nói một cách khác, các điều luật của các quốc gia thành viên sẽ phải tuân theo định hướng của Hiệp định TPP[1].
Đầu năm 2009, Việt Nam quyết định tham gia Hiệp định TPP với tư cách thành viên liên kết. Tháng 11/2010, Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán TPP. Các thành viên tham gia TPP đều đã phải ký một thỏa thuận giữ bí mật về tiến trình thương lượng chi tiết các điều luật của TPP. Các nước này chỉ được tiết lộ những thông tin trên đến các cơ quan chính phủ, tổ chức, và cá nhân có liên quan trực tiếp đến tư vấn chính sách giao dịch. 
Hàn Quốc, Colombia, Costa Rica, Indonesia, Đài Loan, Thái Lan, và nhiều nước khác đang có ý định tham gia vào Hiệp định TPP.
Doanh nghiệp Việt Nam với cơ hội và thách thức gì khi Hiệp định TPP được thực hiện? Đây là câu hỏi mà rất nhiều người, doanh nghiệp Việt Nam và giới nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu.
Khi tham gia các FTA, doanh nghiệp Việt nam sẽ được mở thêm nhiều cánh cửa cho thị trường xuất khẩu, là cơ hội để phát triển xuất khẩu, khi các quốc gia tham gia FTA sẽ phải giảm thuế cho hàng hóa Việt Nam khi đi vào thị trường của họ theo như cam kết,.. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn, những rủi ro đến từ sự cạnh tranh của các thị trường quốc tế tràn vào nội địa, rủi ro từ chính thị trường trong nước… Tương tự như vậy,  khi Hiệp định TPP đi vào thực hiện cũng sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt nam, như:
Thứ nhất: Về tiếp cận thị trường (đối với thương mại dịch vụ và đầu tư) Việt Nam sẽ được tiếp cận thị trường dịch vụ của các nước đối tác thuận lợi hơn, với ít các rào cản và điều kiện dễ dàng hơn. Hoạt động xuất khẩu của Việt nam sẽ được phân bổ đồng đều hơn tại các khu vực trên toàn cầu. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường các nước Châu Á vẫn chiếm phần nhiều. Điều này sẽ có ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất khẩu của nước ta nếu khu vực này có biến động xấu về kinh tế. TPP sẽ mở ra cơ hội cho doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào các thị trường của các khu vực khác như Châu Âu, Châu Mỹ… để tránh được rủi ro về mặt tăng trưởng xuất khẩu.
Thứ hai: Về thuế quan, hàng hóa Việt Nam được tiếp cận các thị trường này với mức thuế quan thấp hoặc bằng 0, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt nam như nông sản, dệt may, giày dép, thủy sản, đồ gỗ sẽ có nhiều thuận lợi hơn khi vào các thị trường, như: Nhật Bản, Canada và Mỹ vì khi thực hiện TPP các nước này sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu cho các mặt hàng trên của Việt Nam. Cụ thể:
+Đối với thương mại hàng hóa : Các bên tham gia Hiệp định TPP nhất trí xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan đối với hàng hóa công nghiệp và xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan cũng như các chính sách mang tính hạn chế khác đối với hàng hóa nông nghiệp.Việc tiếp cận mang tính ưu đãi thông qua Hiệp định TPP sẽ làm gia tăng thương mại giữa các nước tham gia Hiệp định TPP với thị trường gồm 800 triệu dân và sẽ hỗ trợ cho việc làm chất lượng cao tại tất cả 12 nước thành viên. Việc xóa bỏ phần lớn thuế quan đối với hàng công nghiệp sẽ được thực hiện ngay lập tức mặc dù thuế quan đối với một số mặt hàng sẽ được xóa bỏ với lộ trình dài hơn do các bên thống nhất.
Các bên cũng nhất trí không sử dụng các yêu cầu về thực hiện như là điều kiện để một số nước áp đặt cho các doanh nghiệp để được hưởng các lợi ích về thuế quan. Ngoài ra, các bên nhất trí không áp dụng các hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu và các loại thuế không phù hợp với WTO, bao gồm cả đối với hàng tân trang  - việc này được cho là sẽ thúc đẩy việc tái chế tất cả các bộ phận để chuyển thành các sản phẩm mới. Nếu các bên tham gia Hiệp định TPP duy trì yêu cầu cấp phép nhập khẩu hoặc xuất khẩu thì phải thông báo cho các bên kia về những quy trình không nhằm mục đích làm chậm sự lưu thông thương mại.  
+Đối với hàng nông nghiệp, các bên sẽ xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các chính sách mang tính hạn chế khác. Các bên TPP nhất trí thúc đẩy cải cách về mặt chính sách, bao gồm cả việc thông qua xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp, hợp tác trong WTO để xây dựng các quy định về tín dụng xuất khẩu và giới hạn khoảng thời gian cho phép áp dụng các hạn chế đối với xuất khẩu lương thực nhằm bảo đảm hơn nữa an ninh lương thực trong khu vực.
+Đối với hàng dệt may: Các bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ thuế quan đối với hàng dệt may – ngành công nghiệp đóng vai trò quan trọng vào tăng trưởng kinh tế tại một số thị trường của các nước TPP. Hầu hết thuế quan sẽ được xóa bỏ ngay lập tức, mặt dù thuế quan đối với một số mặt hàng nhạy cảm sẽ được xóa bỏ với lộ trình dài hơn do các bên thống nhất. Chương về dệt may cũng bao gồm các quy tắc xuất xứ cụ thể yêu cầu việc sử dụng sợi và vải từ khu vực TPP 
12 nước thành viên Hiệp định TPP đã thống nhất về một bộ quy tắc xuất xứ chung để xác định một hàng hóa cụ thể “có xuất xứ” và do vậy được hưởng thuế quan ưu đãi trong TPP. Hiệp định TPP quy định về “cộng gộp” để các nguyên liệu đầu vào từ một bên TPP được đối xử như những nguyên liệu từ một bên khác nếu được sử dụng để sản xuất ra một sản phẩm tại bất kỳ một bên TPP.
Thứ ba: Các cam kết cải thiện môi trường đầu tư của Việt nam sẽ là cơ hội lớn để dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam ngày càng nhiều, khi đó Việt nam sẽ giải quyết được nhiều công ăn việc làm, hình thành năng lực sản xuất mới để tận dụng các cơ hội xuất khẩu và tham gia các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu mà TPP mang lại. Cụ thể:
Từ việc giảm thuế hàng nhập khẩu từ các nước TPP: Người tiêu dùng và các ngành sản xuất sử dụng nguyên liệu nhập khẩu từ các nước này làm nguyên liệu đầu vào sẽ được hưởng lợi từ hàng hóa, nguyên liệu giá rẻ, giúp giảm chi phí sinh hoạt và sản xuất, từ đó có thể giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của những ngành này.
Từ những khoản đầu tư, dịch vụ đến từ Hoa Kỳ và các nước đối tác TPP: Đó là một môi trường kinh doanh cạnh tranh hơn, mang lại dịch vụ giá rẻ hơn chất lượng tốt hơn cho người tiêu dùng, những công nghệ và phương thức quản lý mới cho đối tác Việt Nam và một sức ép để cải tổ và để tiến bộ hơn cho các đơn vị dịch vụ nội địa.
Từ những thay đổi thể chế hay cải cách để đáp ứng những đòi hỏi chung của TPP: TPP dự kiến sẽ bao trùm cả những cam kết về những vấn đề xuyên suốt như sự hài hòa giữa các quy định pháp luật, tính cạnh tranh, vấn đề hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuỗi cung ứng, hỗ trợ phát triển… Đây là những lợi ích lâu dài và xuyên suốt các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt có ý nghĩa đối với nhóm doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất (doanh nghiệp nhỏ và vừa) và do đó là rất đáng kể.
+ Từ việc mở cửa thị trường mua sắm công: Mặc dù mức độ mở cửa đối với thị trường mua sắm công trong khuôn khổ Hiệp định TPP chưa được xác định cụ thể nhưng nhiều khả năng các nội dung trong Hiệp định về mua sắm công trong WTO sẽ được áp dụng cho TPP, và nếu điều này là thực tế thì lợi ích mà Việt Nam có được từ điều này sẽ là triển vọng minh bạch hóa thị trường quan trọng này – Hiệp định TPP vì thế có thể là một động lực tốt để giải quyết những bất cập trong các hợp đồng mua sắm công và hoạt động đấu thầu xuất phát từ tình trạng thiếu minh bạch hiện nay.
Từ việc thực thi các tiêu chuẩn về lao động, môi trường: Mặc dù về cơ bản những yêu cầu cao về vấn đề này có thể gây khó khăn cho Việt Nam (đặc biệt là chi phí tổ chức thực hiện của Nhà nước và chi phí tuân thủ của doanh nghiệp) nhưng xét một cách kỹ lưỡng một số tiêu chuẩn trong đó (ví dụ về môi trường) sẽ là cơ hội tốt để Việt Nam làm tốt hơn vấn đề bảo vệ môi trường (đặc biệt trong đầu tư từ các nước đối tác TPP) và bảo vệ người lao động nội địa
Hội nhập khu vực đang nổi lên đóng vai trò chủ đạo với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, đặc biệt là tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Xu thế này không chỉ phản ánh sự mưu cầu lợi ích kinh tế mà còn phản ánh cục diện chính trị quốc tế mới, sau sự nổi lên nhanh chóng của một số nước đang phát triển hàng đầu. Tham gia vào Hiệp định TPP, một cấu trúc quan trọng của khu vực, sẽ giúp Việt Nam nắm bắt và tận dụng tốt hơn các cơ hội do quá trình tái cấu trúc cục diện quốc tế và khu vực cũng như xu thế hội nhập kinh tế khu vực đem lại. Mặt khác, tham gia Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam có thêm điều kiện, tranh thủ hợp tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, triển khai chiến lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói riêng, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, thông qua Hiệp định TPP, Việt Nam sẽ có cơ hội đàm phán để Hoa Kỳ mở cửa thị trường cho hàng hóa của Việt Nam, tạo cú hích mạnh để thúc đẩy xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu. Bên cạnh đó, việc tham gia Hiệp định TPP sẽ góp phần thúc đẩy hơn nữa đầu tư của Hoa Kỳ và các nước vào Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh viễn cảnh tăng trưởng xuất khẩu thì sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam vốn còn yếu, khả năng quản lý còn nhiều bất cập khi có TPP cũng rất mạnh. Việc đưa thuế nhập khẩu về 0% trong các thành viên chịu tác động của Hiệp định TPP, đồng nghĩa với mở cửa thị trường sẽ làm cho hàng hóa nhập khẩu từ các nước tràn về Việt Nam ngày càng nhiều, điều này sẽ bất lợi từ việc giảm thuế quan với hàng hóa từ các nước đối tác. Việc giảm thu ngân sách từ thuế nhập khẩu sau khi thực hiện Hiệp định TPP là hệ quả chắc chắn và trực tiếp. Giảm thuế cũng gây nguy cơ cạnh tranh khốc liệt giữa hàng trong nước và ngoại nhập, hệ quả tất yếu là thị phần hàng “Made in Vietnam” bị ảnh hưởng và khi đó các doanh nghiệp sản xuất trong nước sẽ gặp không ít khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm, nhất là người tiêu dùng Việt nam có xu hướng thích dùng hàng ngoại nhiều hơn. Các doanh nghiệp Việt nam sẽ chịu sức ép cạnh tranh nhiều hơn nhất là các doanh nghiệp trong các ngành như ô tô, thực phẩm, đường, ngân hàng, phân phối, viễn thông… hoặc là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có vốn ít và sự chuẩn bị còn hạn chế. Về thị trường lao động, năng suất thấp sẽ khiến nền kinh tế Việt Nam khó cạnh tranh với các nước, một số hệ quả xã hội tiêu cực như tình trạng phá sản và thất nghiệp ở các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh yếu. Do vậy, nếu không có sự chuẩn bị tốt, nhiều ngành sản xuất và dịch vụ có thể sẽ gặp khó khăn.
Gia nhập Hiệp định TPP, đây là con đường mà sớm hay muộn Việt Nam cũng phải đi qua để chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công, theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng kinh tế. Những yêu cầu cao liên quan đến việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng là áp lực “nặng ký” trong hoàn cảnh số vụ vi phạm về quyền sở hữu trí tuệ ở nước ta còn nhiều và các thiết chế bảo hộ thiếu hiệu quả.
Hiệp định TPP hiện được coi là “Hiệp định của thế kỷ XXI” vì mấy lý do sau:
Thứ nhấttiếp cận thị trường một cách toàn diện: Hiệp định TPP cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế về căn bản đối với tất cả thương mại hàng hóa và dịch vụ và điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực về thương mại trong đó có thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư nhằm tạo ra các cơ hội và lợi ích mới cho doanh nghiệp, người lao động và người tiêu dùng của các nước thành viên.
Thứ haitiếp cận mang tính khu vực trong việc đưa ra các cam kết: Hiệp định TPP tạo thuận lợi cho việc phát triển sản xuất và dây chuyền cung ứng, cũng như thương mại không gián đoạn, đẩy mạnh tính hiệu quả và hỗ trợ thực hiện mục tiêu về tạo việc làm, nâng cao mức sống, thúc đẩy các nỗ lực bảo tồn và tạo thuận lợi cho việc hội nhập qua biên giới cũng như mở cửa thị trường trong nước.
Thứ ba, giải quyết các thách thức mới đối với thương mại: Hiệp định TPP thúc đẩy việc đổi mới, năng suất và tính cạnh tranh thông qua việc giải quyết các vấn đề mới, trong đó bao gồm việc phát triển nền kinh tế số và vai trò ngày càng tăng của các doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế toàn cầu.
Thứ tưbao hàm toàn bộ các yếu tố liên quan đến thương mại: Hiệp định TPP bao gồm các yếu tố mới được đưa ra để bảo đảm rằng các nền kinh tế ở tất cả các cấp độ phát triển và doanh nghiệp thuộc mọi quy mô đều có thể hưởng lợi từ thương mại. Hiệp định bao gồm các cam kết nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiểu rõ về Hiệp định, tận dụng được những cơ hội mà Hiệp định mang lại và nêu lên những thách thức đáng chú ý tới chính phủ các nước thành viên. Hiệp định cũng bao gồm những cam kết cụ thể về phát triển và nâng cao năng lực thương mại để đảm bảo rằng tất cả các Bên đều có thể đáp ứng được những cam kết trong Hiệp định và tận dụng được đầy đủ những lợi ích của Hiệp định.
Thứ năm, nền tảng cho hội nhập khu vực: Hiệp định TPP được ra đời để tạo ra nền tảng cho việc hội nhập kinh tế khu vực và được xây dựng để bao hàm cả những nền kinh tế khác xuyên khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Như vậy, Hiệp định TPP đã hướng tới một sân chơi mới nhằm tạo ra các tiêu chuẩn mới cho thương mại, đầu tư, hội nhập kinh tế quốc tế nên tiêu chuẩn và mục tiêu đặt ra rất cao. Đây cũng là một hiệp định có vị trí và tầm chiến lược quan trọng nhất đang được đàm phán tại thời điểm hiện nay trên thế giới. Hiệp định TPP sẽ tạo điều kiện cân bằng lại quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các khu vực thị trường trọng điểm, tránh phụ thuộc quá mức vào một khu vực thị trường nhất định. Bên cạnh đó, quan hệ thương mại tự do với các thị trường lớn sẽ tạo đột phá cho xuất khẩu của Việt Nam.
Ngoài ra, cơ hội tiếp cận các thị trường rộng lớn, như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ca-na-đa với thuế nhập khẩu bằng 0%, kết hợp với các cam kết rõ ràng hơn về cải thiện môi trường đầu tư và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chắc chắn sẽ góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt của các tập đoàn đa quốc gia. Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi lớn từ làn sóng đầu tư mới, tạo ra nhiều công ăn việc làm, hình thành năng lực sản xuất mới để tận dụng các cơ hội xuất khẩu và tham gia các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu do TPP đem lại.
Với các cam kết sâu và rộng hơn, Hiệp định TPP sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam phân bổ lại nguồn lực theo hướng hiệu quả hơn, từ đó hỗ trợ tích cực cho quá trình cơ cấu lại và đổi mới mô hình tăng trưởng. Hiệp định TPP hướng tới môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch hóa quy trình xây dựng chính sách và khuyến khích sự tham gia của công chúng vào quá trình này, do vậy sẽ có tác dụng rất tốt để hoàn thiện thể chế kinh tế cũng như tăng cường cải cách hành chính.
Rõ ràng, với việc thực thi Hiệp định TPP chúng ta sẽ tăng tốc mở cửa với thế giới, tạo lập một nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó - cơ sở để xây dựng một nền kinh tế có sức cạnh tranh.
Thật vậy, bên cạnh những yếu tố thuận lợi bao giờ cũng có khó khăn nhất định; cơ hội thường đan xen với sự thách thức, thực tế không ít người, doanh nghiệp do thông tin không đầy đủ nên tỏ ra lo lắng, như: Khi tham gia Hiệp định TPP, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) sẽ không còn được hưởng các ưu đãi, không còn những đặc quyền, đặc lợi, các doanh nghiệp tư nhân sẽ có cơ hội để phát triển và cạnh tranh bình đẳng,…Thực tiễn cho thấy, DNNN Việt Nam hiện vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế (lĩnh vực kinh doanh, số lượng lao động, tài sản, đóng góp NSNN, đóng góp GDP). Do đó, tham gia Hiệp định TPP vừa là thách thức song cũng là cơ hội để Việt Nam thực hiện cải cách khu vực DNNN. Những quy định tại Chương 17 Doanh nghiệp Nhà nước và các đơn vị  độc quyền của Hiệp định TPP là thông điệp cần thiết để cải cách các DNNN vốn hoạt động theo cơ chế xin - cho, ưu đãi nhiều. Hiệp định TPP đặt ra thời hạn cho việc cải cách DNNN, mà theo các chuyên gia nghiên cứu cho rằng có 4 việc cần ưu tiên, giải quyết. Thứ nhất, chương trình cổ phần hóa DNNN phải thay đổi, phải lấy mục tiêu là thay đổi cấu trúc sở hữu thay vì số lượng doanh nghiệp được tham gia cổ phần hóa mà cấu trúc sở hữu vẫn nghiêng về phía Nhà nước. Thứ hai, cách làm phải dựa trên trách nhiệm cá nhân, chứ không thể trì hoãn được nữa. Thứ ba, một loạt các chính sách liên quan đến giá tài sản, đất đai, nhà xưởng,… khá phức tạp liên quan đến tài sản của Nhà nước, nếu không xử lý được quá trình cổ phần hoá sẽ thất bại. Thứ tư, cần công khai, minh bạch. “Đây là cuộc di chuyển cực kỳ lớn, tài sản Nhà nước giao cho xã hội nếu không công khai minh bạch khả năng sẽ mất rất nhiều”, cách đặt vấn đề DNNN bình đẳng với mọi doanh nghiệp hàm nghĩa DNNN phải vận hành giống như doanh nghiệp tư nhân chỉ có chủ sở hữu thuộc về Nhà nước nhưng phải hoạt động như doanh nghiệp tư nhân, như tinh thần Điều 17.6[2] Chương 17 của Hiệp định TPP mô tả.
 Đồng thời, Hiệp định TPP sẽ tạo sức ép thúc đẩy các DNNN chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh. Tham gia Hiệp định TPP, Việt Nam sẽ phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo hướng cải cách mạnh mẽ DNNN, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường, loại bỏ mọi hình thức trợ cấp trái với quy định của WTO, cải cách và hoàn thiện thể chế về pháp luật kinh doanh. Như vậy, Hiệp định TPP về cơ bản là phù hợp với định hướng cải cách DNNN cũng như cải cách, đổi mới kinh tế thị trường của Việt Nam.
Việc công khai minh bạch cũng là một thách thức đối với DNNN khi tham gia TPP. TPP yêu cầu DNNN phải công khai và minh bạch tuyệt đối trong sử dụng ngân sách, trong đó có quy định công khai và minh bạch giao dịch và tài chính của DNNN. Trong khi đó, đối với DNNN Việt Nam, việc công khai tài chính đã khó, công khai giao dịch (toàn bộ hoạt động mua, bán, ký kết, đàm phán...) lại càng phức tạp. Tuy nhiên, quy định này một mặt tạo sức ép, song đồng thời cũng tạo động lực tái cấu trúc khu vực DNNN và là cơ hội tốt để sàng lọc lại hệ thống DNNN. Thực tế đã chứng minh, nhiều doanh nghiệp Việt Nam theo thời gian đã trở nên thành công nhờ cổ phần hóa như: Bảo Việt hay Công ty cổ phần Sữa Việt Nam... Vì vậy, thách thức hiện nay của Chính phủ là phải đẩy mạnh đổi mới, cải cách hệ thống DNNN, đặc biệt là các DNNN hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ[3].
Hay cũng có nhìn nhận chưa thật khách quan, đúng đắn và toàn diện về những thuận lợi, khó khăn cũng như cơ hội và thách thức khi thực hiện Hiệp định TTP mà nghiêng nhiều hơn về suy diễn, hay nói đúng hơn là có sự hiểu nhầm một số nội dung Hiệp định TPP khi được thực thi, đó là:
Một là, Hiệp định TPP có thể làm giảm sút xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên bởi song song với lộ trình giảm dần thuế xuất nhập khẩu về 0%, các quốc gia cũng đồng thời dựng lên các rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT)[4] để xiết chặt hơn hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam về các vấn đề như chất lượng hay giá cả. Điều này là sai, đơn giản vì các nước thành viên khi muốn dựng lên TBT mới thì phải tuân thủ những quy định chặt chẽ trong các FTA này, chứ không phải muốn dựng lên cái gì thì dựng, muốn dựng lên lúc nào thì dựng. Chẳng hạn, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA), mà theo đó, các nội dung chính của hiệp định gồm: thương mại hàng hóa, quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), thương mại dịch vụ, đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm của chính phủ, sở hữu trí tuệ (gồm cả chỉ dẫn địa lý), phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, pháp lý - thể chế. Như vậy, các bên liên quan có nghĩa vụ tuân thủ nội dung đã cam kết. Tương tự như vậy, trong Hiệp định TPP có hẳn một chương, Chương 8 - Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại , có những quy định cụ thể liên quan. Mà theo đó, tại Điều 8.2 cũa Chương này có quy định: “ Mục tiêu của Chương này, bao gồm các Phụ lục, là tạo thuận lợi cho thương mại, bao gồm loại bỏ các rào cản kỹ thuật không cần thiết đối với thương mại, tăng cường tính minh bạch, và đẩy mạnh hợp tác và quản lý hành chính tốt.”. Như vậy, để ngăn các nước thành viên lạm dụng Hiệp định TBT khi bắt buộc nhà nhập khẩu phải có chứng nhận tuân thủ điều kiện kỹ thuật để được nhập khẩu, Hiệp định TPP không cho phép nước sở tại yêu cầu cơ quan cấp chứng nhận tuân thủ này phải có hoạt động kiểm tra chứng nhận này tại nước sở tại, hay phải có văn phòng tại nước sở tại. Thêm nữa, các nước thành viên cũng phải trả lời cho một tổ chức chứng nhận tuân thủ hoạt động trong lãnh thổ nước sở tại rằng tổ chức này có đáp ứng được các điều kiện để cấp chứng nhận tuân thủ mà nước sở tại đặt ra hay không khi tổ chức này có yêu cầu.
Những quy định này ra đời từ thực tế rằng các nước thành viên FTA đã dùng TBT như một rào cản ngăn hàng hóa của nước khác thâm nhập vào lãnh thổ của mình bằng việc yêu cầu nhà nhập khẩu phải có giấy chứng nhận tuân thủ điều kiện kỹ thuật, nhưng giấy chứng nhận này lại phải do cơ quan có thẩm quyền của nước thành viên cấp, và vì thế nhiều lúc bị các cơ quan này làm khó, chậm trễ hoặc từ chối cấp phép, làm họ không nhập khẩu hàng hóa vào nước sở tại được. Với những quy định trong Hiệp định TPP có liên quan, nhà nhập khẩu có thể dùng giấy chứng nhận do một tổ chức được phép cấp chứng nhận ở nước ngoài để được chứng nhận rằng đã đáp ứng yêu cầu về tuân thủ kỹ thuật do nước sở tại đặt ra, và do đó không còn bị TBT làm khó dễ như trước đây.
Hai là, quá trình thực hiện một số các Hiệp định FTA[5] mà Việt Nam đã tham gia ký kết gần đây cho thấy, có nhiều trường hợp hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam bị trả lại, không ít sản phẩm của Việt Nam còn thiếu tính ổn định. Cụ thể, với những lô hàng đầu, việc kiểm soát chất lượng làm rất tốt, nhưng những lô sau thường hay có vấn đề và hàng bị trả lại[6], đây được coi là một bằng chứng cho thấy nguy cơ cao rằng các nước thành viên FTA có nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam sẽ tích cực lạm dụng TBT như là một biện pháp ngăn chặn hữu hiệu sự xâm nhập của hàng hóa từ Việt Nam khi các FTA ký kết giữa họ với Việt Nam có hiệu lực, dẫn đến giảm hoặc xóa bỏ thuế quan nhập khẩu từ Việt Nam, làm cho nhập khẩu từ Việt Nam có xu hướng tăng lên tác động tiêu cực đến sản xuất nội địa của họ. Thông thường các FTA có các điều khoản quy định chặt chẽ về áp dụng TBT, ngăn ngừa các nước thành viên lạm dụng TBT để cản trở xuất khẩu của các nước thành viên khác vào lãnh thổ của mình. Thực tế là các vụ việc trả về hàng nhập khẩu từ Việt Nam chủ yếu là kết quả của các TBT hiện thời đang có hiệu lực, chứ không phải là TBT mới, được dựng lên sau này.
Thứ ba: Các Hiệp định FTA mà Việt Nam với tư cách là một đối tác chỉ có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên một cách gián tiếp, chủ yếu là nhờ có các quy định về thúc đẩy và kích thích thương mại thông qua đó khuyến khích nhà sản xuất, xuất khẩu Việt Nam tăng cường đầu tư để giảm giá thành, nâng chất lượng sản phẩm, cải thiện được tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Việt Nam. Chứ còn việc hạ hoặc xóa bỏ thuế quan chỉ có tác dụng nâng giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu của Việt Nam (do không còn phải nộp thuế nhập khẩu như trước), và không trực tiếp làm tăng sản lượng xuất khẩu của Việt Nam. Lập luận trên đã bỏ qua hoặc xem nhẹ tác động lớn nhất và quan trọng nhất của FTA là giảm/miễn thuế sẽ trực tiếp làm tăng tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu so với hàng sản xuất trong nước. Ví dụ, trước đây nhà xuất khẩu Việt Nam bán 1 cái áo sơ mi với giá 10 USD vào thị trường Mỹ, trong đó có 1 USD là tiền thuế và 1 USD là lợi nhuận ròng. Nay với Hiệp định TPP, nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam được miễn khoản 1 USD này, nên có thể để mức giá bán mới là 9,2 USD, và sẽ thu tổng cộng là 1,2 USD lợi nhuận so với 1 USD lợi nhuận như trước đây. Người mua ở Mỹ trước đây phải mua cũng chiếc áo đó với giá 10 USD, nay  phía Việt Nam hạ giá xuống chỉ còn 9,2 USD nên thay vì mua 1 cái áo như trước đây thì nay mua luôn 1,1 cái áo từ phía Việt Nam do thấy hàng đã hạ giá (đồng thời giảm mua 0,1 cái áo từ trong nước hay từ các nước khác khi giá ở đó vẫn giữ nguyên). Như vậy là cả 2 bên đều có lợi. Chỉ có ngân sách của Mỹ là thiệt vì đã thất thu thuế, còn doanh nghiệp dệt may của Mỹ và của các nước đối thủ của Việt Nam như Cambodia và Bangladesh thì mất bớt đơn hàng vào tay doanh nghiệp Việt Nam. Nói cách khác, Hiệp định TPP đã trực tiếp làm lợi cho nhà xuất khẩu Việt Nam khi vừa bán được nhiều hơn, lại bán được với giá cao hơn, chứ không đúng như lập luận bên trên rằng xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ không tăng lên được nhờ giảm/miễn thuế nhập khẩu.
Chưa hết, Việt Nam bán được nhiều hơn với giá cao hơn nên càng có động lực và điều kiện để giảm giá thêm nữa, nhờ kinh tế quy mô và nhờ tái đầu tư lợi nhuận gia tăng vào hợp lý hóa sản xuất để cắt giảm chi phí…, nên xuất khẩu của Việt Nam càng có nhiều cơ hội tăng trưởng, lấn át các doanh nghiệp nội địa của Mỹ cũng như của các nước xuất khẩu phi thành viên TPP vào Mỹ. Cũng bởi những lý do này mà không chỉ nhiều doanh nghiệp trong ngành dệt May của Mỹ đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ TPP mà ngay cả những nước xuất khẩu dệt may lớn khác trong khu vực như Pakistan, Bangladesh, Cambodia và Myanmar gần đây cũng đã phải bày tỏ lo ngại sâu sắc về việc doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ lấy đi công ăn việc làm trong ngành này của họ[7].
Tóm lại, dù Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hiệp định Thương mại tự do (FTA) hay Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) tất cả đều hoạt động dựa trên mục tiêu chính là nâng cao mức sống của nhân dân các nước thành viên, đảm bảo việc thúc đấy tăng trưởng kinh tế, thương mại và sử dụng hiệu quả nhất nguồn nhân lực của thế giới. Do vậy, để có sức cạnh tranh nhiều hơn cho các doanh nghiệp, rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước để họ thích ứng với các quy định của các hiệp định mà Việt Nam đã ký kết, như: Tổ chức cơ quan đầu mối thông tin, giúp đỡ các doanh nghiệp bị ảnh hưởng, tư vấn cách thức để tận dụng các cơ hội thị trường mới. Đấy là những động lực để thúc đẩy nền kinh tế của các nước thành viên phát triển nhanh và hiệu quả nhất.
Phạm Thị Hồng Đào - Văn phòng luật sư Thạnh Hưng
456/1 Nguyễn Thị Thập, phường 6, thành phố Mỹ Tho – Tiền Giang
 

[1] http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/265914/10-kien-thuc-can-ban-ve-hiep-dinh-tpp.html
[2] Điều 17.6: Trợ giúp phi thương mại
1. Không Bên nào được gây bất lợi đến lợi ích của Bên kia qua việc sử dụng trợ giúp phi thương mại mà mình cung cấp, trực tiếp hay gián tiếp, đến bất kỳ một doanh nghiệp nhà nước nào của mình đối với:
(a) sản xuất và bán một hàng hóa bởi doanh nghiệp nhà nước;
(b) cung cấp một dịch vụ bởi doanh nghiệp nhà nước từ lãnh thổ của Bên mình sang lãnh thổ của Bên kia;
(c) cung cấp một dịch vụ trên lãnh thổ của Bên kia thông qua một doanh nghiệp vốn là một đối tượng đầu tư trong lãnh thổ của Bên đó hoặc một Bên thứ ba.
2.  Không Bên phải đảm bảo rằng các doanh nghiệp nhà nước của mình không gây bất lợi đến lợi ích của Bên kia qua việc sử dụng trợ giúp phi thương mại mà doanh nghiệp nhà nước cung cấp đến bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào của mình đối với:
(a) sản xuất và bán một hàng hóa bởi doanh nghiệp nhà nước;
(b) cung cấp một dịch vụ bởi doanh nghiệp nhà nước từ lãnh thổ của Bên mình sang lãnh thổ của Bên kia;(c) cung cấp một dịch vụ trên lãnh thổ của Bên kia thông qua một doanh nghiệp vốn là một đối tượng đầu tư được bảo lãnh trên lãnh thổ của Bên đó hoặc một Bên thứ ba.
3.  Không Bên nào được gây tổn hại đến ngành công nghiệp nội địa của Bên kia thông qua việc sử dụng trợ giúp phi thương mại mà mình cung cấp, trực tiếp hay gián tiếp, đến bất kỳ một doanh nghiệp nhà nước nào của mình cũng là một đối tượng đầu tư được bảo lãnh trên lãnh thổ của Bên kia trong những trường hợp khi:
(a) sự trợ giúp phi thương mại được cung cấp cho việc sản xuất và bán một hàng hóa bởi doanh nghiệp nhà nước trên lãnh thổ của Bên kia; và
(b) một hàng hóa tương tự được sản xuất và bán trên lãnh thổ của Bên kia bởi ngành công nghiệp nội địa của Bên đó.
4. Một dịch vụ được cung cấp bởi một doanh nghiệp nhà nước của một Bên trong phạm vi lãnh thổ của Bên đó sẽ được coi là không gây ra những ảnh hưởng bất lợi.
[3] http://www.baomoi.com/Vao-TPP-Viet-Nam-can-day-nhanh-cai-cach-doanh-nghiep-Nha-nuoc/c/17731575.epi
[4] Trong thương mại quốc tế, các “rào cản kỹ thuật đối với thương mại” (technical barriers to trade) là các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mà một nước áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu và/hoặc quy trình nhằm đánh giá sự phù hợp của hàng hoá nhập khẩu đối với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đó (còn gọi là các biện pháp kỹ thuật – biện pháp TBT).
[5] Tính đến cuối tháng 11/2015, Việt Nam đã tham gia và hoàn tất đàm phám 12 hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương. Trong số đó, có 8 FTA đã có hiệu lực và đang thực thi, là Hiệp định thương mại tự do thương mại ASEAN (AFTA, ký kết năm 1996) và 5 FTA giữa ASEAN với các đối tác (FTA giữa ASEAN và Trung Quốc; FTA giữa ASEAN và Hàn Quốc; FTA giữa ASEAN và Nhật Bản; FTA giữa ASEAN và Ấn Độ; FTA giữa ASEAN và Australia - New Zealand); 2 FTA song phương (Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - Nhật Bản và Hiệp định thương mại tự do song phương Việt Nam - Chile). Các hiệp định đã ký kết nhưng chưa có hiệu lực là FTA Việt Nam - Hàn Quốc (ký kết ngày 5-5-2015) và FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu (ký ngày 29-5-2015). Các FTA thế hệ mới đã kết thúc đàm phán gồm FTA Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA, công bố ngày 4-8-2015) và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP, công bố ngày 5-10-2015). http://www.sggp.org.vn/kinhte/2015/11/404385/#sthash.zfxx5PQo.dpuf
[6] tháng 7 đến tháng 11-2011, một lô hàng 600 tấn mật ong Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ bị trả lại, bởi họ cho rằng trong mật ong Việt Nam có chứa chất Carbenzamin (thuốc trừ nấm). Từ đó, việc bán các sản phẩm từ ong (mật, phấn hoa, sữa ong chúa…) sang thị trường Mỹ cũng trở nên khó khăn hơn. Đối với Công ty CP Ong mật Đắk Lắk, nếu như năm 2014, DN còn xuất khẩu được khoảng 11.000 tấn sản phẩm từ ong thì từ năm 2015 đến nay chỉ xuất được khoảng 4.500 tấn, giảm khoảng 40%  so với cùng kỳ năm 2014, mặc dù sản phẩm của DN vẫn đáp ứng đủ các yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng, quy trình sản xuất mà phía đối tác đưa ra. - See more at: http://anthaigroup.vn/tin-tuc-su-kien/tin-trong-nganh/220/doanh-nghiep-xuat-khau-can-chiem-linh-thi-truong-noi-dia/#sthash.Erh1HGWX.dpuf  [truy cập ngày 02/3/2016]
[7] http://www.vnmedia.vn/bds-tai-chinh/201602/nhung-hieu-nham-tai-hai-ve-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-523127/