Dọc theo chiều dài lịch sử của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, cha ông chúng ta đã để lại một kho tàng tri thức và kinh nghiệm vô cùng phong phú và quí báu trong công tác quản lý xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng, sắp xếp bố trí và quản lý đội ngũ quan lại phục vụ trong tổ chức bộ máy hành chính quan liêu. Phần lớn những tri thức, kinh nghiệm này được chắt lọc, kế thừa và phát triển trên cơ sở các điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống văn hoá và tính cách dân tộc cụ thể của xã hội Việt Nam. Chính vì vậy, nhiều tri thức, kinh nghiệm đã trở thành những lớp trầm tích lắng đọng giữ nguyên được những giá trị thực tiễn vô cùng sâu sắc đối với công tác quản lý cán bộ trong giai đoạn hiện nay. Trong kho tàng tri thức, kinh nghiệm quản lý đó, việc xây dựng và thực thi chính sách hồi tỵ (law of avoidance) của cha ông chúng ta đã để lại nhiều suy ngẫm đối với công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay.
Luật hồi tỵ - hơn 500 năm hình thành và phát triển…
Triết lý hồi tỵ - tránh đi, khởi nguồn từ sự nghiệp cải cách nền hành chính quốc gia toàn diện và sâu sắc của vua Lê Thánh Tông - một vị vua anh minh đứng đầu thể chế quân chủ phong kiến trị vì đất nước suốt 38 năm (1460-1497). Với quan điểm “Trăm quan là nguồn gốc của trị, loạn. Quan có đức, có tài thì nước trị. Quan vô đức, kém tài là thềm, bậc dẫn đến hoạ loạn”, đức Vua đã sáng suốt đặt trọng tâm của sự nghiệp cải cách hành chính vào lĩnh vực cải cách thể chế và cải cách đội ngũ quan lại. Sau khi đã có kinh nghiệm cai trị đất nước trong 26 năm, vua Lê Thánh Tông đã đặt ra chế độ hồi tỵ phục vụ cho công tác bổ dụng đội ngũ quan lại phong kiến đương thời. Chế độ này đã được đức Vua tiếp tục bổ sung và từng bước hoàn thiện trong suốt 11 năm sau đó. Nội dung cơ bản của chính sách hồi tỵ giai đoạn này có thể được tóm tắt ở một số nội dung chính sau:
1. Không được bổ nhiệm một viên quan về cai trị huyện hoặc tỉnh mà ông ta xuất thân từ đó.
2. Không được bổ nhiệm một viên quan tới nơi ông ta có người họ hàng tại nhiệm ở vị trí lãnh đạo.
3. Trong thời gian trị nhậm tại một tỉnh hoặc một huyện, một viên quan không được cưới vợ, lấy thiếp là người của địa hạt đó.
4. Một viên quan không được phép tại vị quá lâu ở cùng một địa phương hoặc cùng một viện, bộ chức năng.
Trải qua nhiều thăng trầm biến cố lịch sử, khi triều Nguyễn nắm ngôi quân chủ, vua Minh Mệnh - một ông vua được các sử gia đánh giá là năng động và quyết đoán, đã đề xuất hàng loạt cải cách từ nội trị đến ngoại giao trong suốt 21 năm trị vị đất nước (1820-1841). Cảm thấy nhức nhối trước thực trạng “các chức thông phán, kịch liệt phần nhiều là người địa phương. Do đó, vì tình riêng làng nước, khó lòng khỏi sự tư túi sinh ra nhiều tệ hại”, kế thừa tư tưởng và những kinh nghiệm quý báu của vua Lê Thánh Tông, triều Nguyễn dưới thời vua Minh Mạng và Thiệu Trị đã ban hành luật Hồi tỵ vào năm 1831 và liên tục bổ sung vào các năm tiếp theo với phạm vi, đối tượng áp dụng mở rộng hơn, các quy định nghiêm ngặt hơn so với thời vua Lê Thánh Tông. Những nội dung nghiêm ngặt được bổ sung trong giai đoạn này tập trung vào một số nội dung chính sau;
1. Quan lại không được tậu đất, vườn, ruộng, nhà tại nơi cai quản.
2. Quan lại không được lấy người cùng quê làm người giúp việc.
2. Người có quan hệ thầy trò, bạn bè không được làm việc tại cùng một công sở.
3. Các lại dịch nha môn, các bộ ở kinh đô và các tỉnh là con, anh em ruột, anh em con chú, con bác với nhau thì phải tách ra, đổi bổ đi nơi khác.
4. Các quan lại không được làm quan ở nơi trú quán (nơi ở một thời gian lâu), ở quê vợ, quê mẹ mình, thậm chí cả nơi học tập lúc nhỏ hoặc lúc trẻ tuổi.
5. Các lại mục, thông lại cũng không được làm việc ở phủ huyện là quê hương mình.
6. Các lại mục, thông lại các nha thuộc các phủ huyện là người cùng làng cũng phải chuyển bổ đi nơi khác.
7. Các quan viên từ Tham biện trở lên ở các trấn, tỉnh về kinh đô chầu được dự đình nghị, song khi trong các cuộc họp có bàn việc liên quan đến địa phương mà mình nhậm trị thì không được vào dự.
8. Các khảo quan (coi thi, chấm thi) có người thân thích dự thi ở trường mình thì phải báo lên cấp trên để tránh đi. Nếu cố tình không khai báo sẽ bị trọng tội vì cố ý làm trái.
9. Các quan thanh tra, xét xử thấy trong vụ án, vụ điều tra có người thân quen của mình (bà con nội, ngoại, bạn thân…) đều phải khai báo và hồi tỵ ngay.
10. Cấm quan đầu tỉnh lấy vợ trong trị hạt vì sợ gia đình vợ nhũng nhiễu; cấm các quan tậu ruộng vườn, nhà cửa trong trị hạt vì sợ quan hiếp dân để được mua rẻ; cấm tư giao với đàn bà con gái trong trị hạt; cấm các quan lại đã về hưu quay lại cửa công để cầu cạnh…
Như vậy, cùng với các chính sách đào tạo, đãi ngộ và sử dụng nhân tài, trong chế độ quân chủ phong kiến, các quan chức đương thời được tuyển dụng, bố trí và quản lý theo một luật lệ hết sức nghiêm ngặt. Thực tiễn lịch sử cho thấy hồi tỵ là một chủ trương, đường lối, chính sách đắc lực và quan trọng giúp các vị quân chủ phong kiến có thể quản lý và khống chế đội ngũ quan lại câu kết, ngăn ngừa sự lạm chức quyền, địa vị để kết bè kéo cánh, âm mưu chống lại triều đình. Chính sách hồi tỵ cũng còn là chế độ phòng ngừa, giám sát và quản lý nghiêm ngặt các quan lại nhằm ngăn chặn, hạn chế nạn tham nhũng, quan liêu, cát cứ, chạy theo lợi ích cục bộ, địa phương.
…Và một vài suy ngẫm trong công tác cán bộ giai đoạn hiện nay
1. Có thể nói, các biện pháp quản lý cán bộ là vô cùng đa dạng, phong phú. Nó không chỉ thuần tuý hình thành từ những mệnh lệnh khô khan, cứng nhắc theo thứ bậc hành chính hay từ những đòi hỏi mang tính quy luật của nền kinh tế thị trường khi đất nước đang hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, mà những biện pháp hiệu quả có thể giấu mình ngay trong lớp trầm tích của nền văn hoá hàng ngàn năm của dân tộc. Chính sách hồi tỵ là sự thể hiện rõ nét sự am tường, tinh hiểu của cha ông ta về văn hoá, lối sống xã hội cũng như những nguy cơ tiềm ẩn từ quan hệ thân tộc, đồng hương, thầy trò… trong đời sống của đội ngũ quan lại đương thời. Chúng ta có thể thấy chính sách hồi tỵ có một ý nghĩa thực tiễn vô cùng sâu sắc vì nó giúp các chế độ phòng tránh, hạn chế được mặt tiêu cực ngay từ khía cạnh văn hóa ứng xử của những người nắm giữ công quyền, từ đó phát huy tính công tâm, khách quan trong việc phụng sự lợi ích nhà nước của đội ngũ quan lại.
2. Các vị vua thực hiện chính sách hồi tỵ không chỉ là những vị minh quân coi trọng hiền tài, những nhân tài xuất chúng về mặt trí tuệ, mà còn là những nhà lãnh đạo hành chính có bản lĩnh và quyết đoán, mạnh dạn, táo bạo và kiên quyết thực hiện chính sách hồi tỵ với bộ máy quan lại đương thời. Chính sách hồi tỵ cũng còn thể hiện thái độ nghiêm khắc, kiên quyết của cha ông ta trong công tác quản lý đội ngũ quan lại, đặc biệt là trước những hiện tượng hoặc những nguy cơ xảy ra tiêu cực trong đội ngũ quan lại.
3. Luật hồi tỵ thể hiện chính sách, phương châm chủ động phòng ngừa tiêu cực trong bộ máy quan liêu ngay từ khâu bổ dụng đội ngũ quan lại. Trong thực tế, bộ máy quan lại hành chính có vai trò hết sức quan trọng trong việc thực thi các chính sách của chính quyền trung ương tập quyền, vì vậy, cùng với các chính sách đào tạo, sử dụng nhân tài, các biện pháp đãi ngộ vật chất, đãi ngộ tinh thần, các chế độ quân chủ trong lịch sử còn có những biện pháp chủ động phòng ngừa một cách nghiêm ngặt đối với nguy cơ tiêu cực. Chính sách hồi tỵ chính là triết lý sâu sắc của cha ông ta trong việc đánh giá những nguy cơ tiềm ẩn từ tính cách dân tộc, truyền thống văn hoá, lối sống để thực hiện việc chủ động phòng ngừa ngay từ khâu bổ dụng đội ngũ quan lại.
4. Ngày nay, chính sách sử dụng cán bộ phần nào đã kế thừa được những tư tưởng, chính sách của cha ông ta về hồi tỵ. Chúng ta có thể thấp thoáng nhận thấy một vài quy định hồi tỵ trong các quy định của công tác tuyển dụng công chức, sắp xếp, bố trí cán bộ, công tác bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ, công tác định kỳ chuyển đổi vị trí công tác... Tuy nhiên, những quy định này còn tản mát, thiếu sự tập trung, chưa mang tính hệ thống và chưa thực sự trở thành một tư tưởng, một chính sách lớn mang tính toàn diện trong thực tiễn. Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện các quy định hiện hành cũng còn chưa thực sự mạnh dạn và quyết liệt, hiệu quả đạt được chưa như mong muốn.
Cách đây hơn 60 năm, trong Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ viết ngày 01 tháng 3 năm 1947 ngay từ những ngày đầu kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn phê bình, kiểm thảo “những đồng chí còn giữ thói một người làm quan cả họ được nhờ, đem bà con, bạn hữu đặt vào chức này việc kia, làm được hay không, mặc kệ. Hỏng việc, Đoàn thể chịu, cốt cho bà con, bạn hữu có địa vị là được”. Ngày nay, sau gần 70 năm xây dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền, đội ngũ cán bộ, công chức hành chính đã có những bước phát triển vượt bậc để đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ của đất nước. Công tác quản lý nhà nước đối với công chức, công vụ đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, thể chế hoá và nâng lên thành nhiều đạo luật, nhiều Nghị định, Thông tư. Tuy nhiên, những giá trị văn hoá và giá trị thực tiễn sâu sắc của chính sách hồi tỵ do cha ông xây dựng và phát triển từ hơn 500 năm trước vẫn để lại cho chúng ta nhiều trải nghiệm và suy ngẫm...
Ths. Nguyễn Xuân Tùng
Tài liệu tham khảo:
1. Hồ Chí Minh: Bàn về Nhà nước và Pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2005, tr. 393-398.
2. Phạm Hồng Tung (Chủ biên): Khảo lược về kinh nghiệm phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài trong lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2005, tr. 91-93.
3. Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp: Quốc triều hình luật - Những giá trị lịch sử và đương đại góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp, 2008, tr. 98-100.
4. Trần Trọng Thức: Giấc mơ hồi tỵ, Báo điện tử Vietnamnet tại http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2009-10-23-giac-mo-hoi-ty-.