Trong thời gian qua, các Bộ, ngành, địa phương trong cả nước đã tích cực triển khai công tác theo dõi thi hành pháp luật theo Nghị định số 59/2012/NĐ-CP và đã bước đầu đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, cho đến nay, theo dõi thi hành pháp luật vẫn là một nhiệm vụ mới, có tính chất phức tạp, có phạm vi rộng, liên quan đến tổ chức và hoạt động của tất cả các cơ quan, tổ chức từ trung ương đến địa phương. Vì vậy, để bảo đảm cho công tác theo dõi thi hành pháp luật được triển khai một cách thuận lợi, có hiệu quả, việc nghiên cứu, hoàn thiện thể chế về theo dõi thi hành pháp luật vẫn được đặt ra như một yêu cầu bức thiết.
Từ tính chất, ý nghĩa xã hội cũng như yêu cầu thực tiễn của công tác theo dõi thi hành pháp luật, trên cơ sở rà soát Nghị định số 59/2012/NĐ-CP và các văn bản khác có liên quan cho thấy, việc nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện thể chế về công tác theo dõi thi hành pháp luật cần được thực hiện theo hai hướng: thứ nhất, trước mắt cần hướng dẫn cụ thể một số nội dung đã được quy định tại Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, gồm: (1) Phạm vi trách nhiệm theo dõi thi hành pháp luật; (2) Phối hợp và huy động sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong theo dõi tình hình thi hành pháp luật; (3) Nội dung theo dõi thi hành pháp luật; (4) Các hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Thứ hai, về lâu dài, để công tác theo dõi thi hành pháp luật thực sự phát huy được vai trò trong đời sống xã hội và có thể thực hiện một cách dễ dàng, thuận lợi ở tất cả các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, cần nghiên cứu, xây dựng một văn bản pháp lý có giá trị pháp lý cao hơn sau khi tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện Nghị định số 59/2012/NĐ-CP.
1. VỀ PHẠM VI TRÁCH NHIỆM THEO DÕI TÌNH HÌNH THI HÀNH PHÁP LUẬT
1.1. Quy định tại Nghị định số 59/2012/NĐ-CP: theo quy định tại Điều 5, Điều 15, Điều 16, Điều 17 Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, phạm vi trách nhiệm theo dõi thi hành pháp luật được quy định như sau:
- Bộ Tư pháp theo dõi chung tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước có trách nhiệm: (1) trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về theo dõi tình hình thi hành pháp luật; (2) hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh trong việc thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật; (3) chủ trì, phối hợp với Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan, tổ chức có liên quan theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước và trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý liên ngành, có nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành; (4) hằng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước trước ngày 15 tháng 11. Bên cạnh những trách nhiệm nêu trên, Bộ Tư pháp có trách nhiệm thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật trên các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp. Ngoài ra, với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về công tác thi hành pháp luật, theo quy định tại khoản 2 Điều 15 Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, Bộ Tư pháp có trách nhiệm xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ tiêu thống kê quốc gia để làm cơ sở xem xét, đánh giá tình hình thi hành pháp luật.
- Bộ, cơ quan ngang Bộ theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ. Cơ quan thuộc Chính phủ theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực được phân công có trách nhiệm: (1) chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các cơ quan, đơn vị trực thuộc trong việc thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật; (2) ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; (3) xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật; (4) bảo đảm các điều kiện cho việc thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật; (5) hằng năm báo cáo Bộ Tư pháp về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật trước ngày 15 tháng 10. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm xây dựng, ban hành Chỉ tiêu thống kê ngành làm cơ sở xem xét, đánh giá tình hình thi hành pháp luật.
Tổ chức pháp chế ở Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tham mưu, giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ theo dõi tình hình thi hành pháp luật; các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tham mưu, giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực được phân công.
- UBND các cấp theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi quản lý ở địa phương có trách nhiệm: (1) chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cùng cấp, UBND cấp dưới trong việc thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật tại địa phương; (2) ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của UBND; (3) xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật; (4) bảo đảm các điều kiện cho việc thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật; (5) hằng năm, UBND cấp tỉnh báo cáo Bộ Tư pháp về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật trước ngày 15 tháng 10. UBND cấp huyện, cấp xã thực hiện việc báo cáo về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật theo yêu cầu của UBND cấp trên trực tiếp.
Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã chủ trì, phối hợp với cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện, công chức chuyên môn thuộc UBND cấp xã theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi quản lý ở địa phương. Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện, công chức chuyên môn thuộc UBND cấp xã tham mưu, giúp UBND cùng cấp theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực được phân công. tổ chức pháp chế ở cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh tham mưu, giúp người đứng đầu cơ quan chuyên môn theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
1.2. Yêu cầu và đề xuất nội dung hoàn thiện
(1) Quy định về chỉ tiêu thống kê: Bộ Tư pháp xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ tiêu thống kê quốc gia để làm cơ sở xem xét, đánh giá tình hình thi hành pháp luật; Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm xây dựng, ban hành Chỉ tiêu thống kê ngành làm cơ sở xem xét, đánh giá tình hình thi hành pháp luật.
(2) Quy định cụ thể về Kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật:
- Căn cứ Chương trình công tác của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và thực tiễn thi hành pháp luật, hằng năm Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND cấp tỉnh.
Căn cứ Kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật của UBND cấp tỉnh và thực tiễn thi hành pháp luật ở địa phương, hằng năm Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp xã ban hành Kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật trên địa bàn thuộc phạm vi quản lý.
- Nội dung chủ yếu của Kế hoạch gồm: (1) mục đích, yêu cầu của Kế hoạch; (2) lĩnh vực, địa bàn, văn bản quy phạm pháp luật cần tập trung theo dõi thi hành; (3) Các hoạt động theo dõi thi hành và tiến độ thực hiện; (4) trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong thực hiện Kế hoạch; (5) kinh phí thực hiện Kế hoạch.
- Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý liên ngành có nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành.
Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức Tư pháp - Hộ tịch chủ trì, phối hợp với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện, công chức chuyên môn của UBND cấp xã tham mưu, đề xuất cho UBND cùng cấp ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong các lĩnh vực có nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành.
- Tùy theo yêu cầu của công tác theo dõi thi hành pháp luật, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp điều chỉnh Kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật cho phù hợp .
- Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh gửi cho Bộ Tư pháp; Kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật của UBND cấp huyện và cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh gửi cho Sở Tư pháp; Kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật của UBND cấp xã và cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện gửi cho Phòng Tư pháp để theo dõi chung và làm cơ sở để đánh giá thi đua, khen thưởng.
(3) Hướng dẫn việc thực hiện chế độ báo cáo: Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp thực hiện việc báo cáo tình hình thi hành pháp luật trong các trường hợp sau đây: (1) báo cáo định kỳ hằng năm về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật theo quy định tại Điều 15, Điều 16 và Điều 17 của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP; (2) Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh thực hiện việc báo cáo tình hình thi hành pháp luật theo yêu cầu của Bộ Tư pháp hoặc theo yêu cầu của Bộ, cơ quan ngang Bộ về lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ. UBND cấp dưới thực hiện việc báo cáo tình hình thi hành pháp luật theo yêu cầu của UBND cấp trên trực tiếp; (3) khi phát hiện những vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật hoặc thấy cần thiết phải áp dụng các biện pháp nhằm kịp thời ngăn chặn những thiệt hại có thể xảy ra cho đời sống xã hội nhưng không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình; (4) khi kết thúc các cuộc kiểm tra; điều tra, khảo sát; (5) báo cáo kết quả xử lý các kiến nghị theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
(4) Hướng dẫn thực hiện kinh phí theo dõi thi hành pháp luật:
- Kinh phí cho công tác theo dõi thi hành pháp luật do ngân sách nhà nước cấp và các nguồn kinh phí huy động, tài trợ khác (nếu có). Nội dung chi, mức chi cho các hoạt động theo dõi thi hành pháp luật được áp dụng theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Căn cứ vào nội dung hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp lập dự toán ngân sách hàng năm cho hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật của cơ quan, đơn vị gửi cấp có thẩm quyền quyết định.
- Hoạt động thu thập thông tin, điều tra, khảo sát tình hình thi hành pháp luật áp dụng theo quy định về quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện các cuộc điều tra thống kê.
- Hoạt động kiểm tra, xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật áp dụng theo quy định theo việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật.
2. VỀ PHỐI HỢP VÀ HUY ĐỘNG SỰ THAM GIA CỦA CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC, CÁ NHÂN
2.1. Quy định của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP
- Phối hợp theo dõi tình hình thi hành pháp luật: công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật có phạm vi rất rộng, chủ thể và đối tượng theo dõi tập trung vào các cơ quan nhà nước. Để đánh giá một cách toàn diện về tình hình thi hành pháp luật, ngoài việc đánh giá về tình hình thi hành pháp luật của các cơ quan nằm trong phạm vi quản lý, điều hành của Chính phủ và UBND các cấp, thì việc theo dõi, đánh giá về tình hình thi hành pháp luật trong các cơ quan Toà án, Viện kiểm sát và các tổ chức xã hội thông qua hoạt động của các cơ quan, tổ chức này là rất cần thiết. Đặc biệt, khi thực hiện các nội dung xem xét, đánh giá về tình hình tuân thủ pháp luật được quy định tại Điều 10 Nghị định số 59/2012/NĐ-CP.
Tuy nhiên, về mặt thẩm quyền, trong phạm vi nội dung của một Nghị định không thể quy định trách nhiệm cho các cơ quan, tổ chức nằm ngoài phạm vi, quản lý điều hành của Chính phủ và UBND các cấp. Vì vậy, Điều 18 Nghị định số 59/2012/NĐ-CP chỉ quy định trách nhiệm phối hợp của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp trong việc phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức khác có liên quan trong việc thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Trong quá trình triển khai thực hiện, căn cứ vào tình hình cụ thể mà các Bộ, ngành, địa phương chủ động thực hiện một cách linh hoạt, hiệu quả.
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp có trách nhiệm phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức khác có liên quan trong việc thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
(Điều 18 Nghị định số 59/2012/NĐ-CP)
|
- Sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong theo dõi tình hình thi hành pháp luật: trong giai đoạn hiện nay, sự tham gia của xã hội trong hoạt động quản lý nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng và mang lại những hiệu quả hết sức thiết thực. Dư luận xã hội và các thông tin phản ánh từ các tổ chức, cá nhân về tình hình thi hành pháp luật có những đóng góp quan trọng, tích cực trong việc nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, cũng như bảo đảm cho pháp luật được thực hiện pháp luật một cách nghiêm minh, thống nhất. Thực tiễn cho thấy, công tác theo dõi thi hành pháp luật chủ yếu được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước, trong khi đây là công việc phức tạp, có phạm vi rộng với khối lượng lớn. Điều này đã làm cho mức độ đáp ứng yêu cầu công việc đặt ra còn nhiều hạn chế và kết quả của công tác theo dõi thi hành pháp luật chưa thật sự bảo đảm tính khách quan, chính xác. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả công tác theo dõi thi hành pháp luật, tại các Điều 4, Điều 6 và Điều 13 Nghị định số 59/2012/NĐ-CP quy định về sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
Điều 4. Nguyên tắc theo dõi thi hành pháp luật
………..
5. Huy động sự tham gia của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và nhân dân.
Điều 6. Sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật
1. Các tổ chức, cá nhân có quyền tham gia hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
2. Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện và khuyến khích sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
3. Căn cứ điều kiện cụ thể và yêu cầu của công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp huy động Hội luật gia Việt Nam, Liên đoàn luật sư Việt Nam và các Đoàn luật sư, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hội xã hội, nghề nghiệp, tổ chức nghiên cứu, đào tạo, chuyên gia, nhà khoa học có đủ điều kiện tham gia hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật theo cơ chế cộng tác viên.
Điều 13. Điều tra, khảo sát tình hình thi hành pháp luật
…..
2. Hoạt động điều tra, khảo sát có thể được thực hiện theo cơ chế cộng tác viên.
|
2.2. Yêu cầu và đề xuất nội dung hoàn thiện
(1) Quy định về cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật:
- Căn cứ yêu cầu cụ thể của từng hoạt động theo dõi thi hành pháp luật, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp đề nghị (1) Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân cung cấp thông tin về tình hình vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân thông qua hoạt động truy tố, xét xử; (2) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cung cấp thông tin về kiến nghị của nhân dân về tình hình thi hành pháp luật; (3) Hội luật gia Việt Nam, Liên đoàn luật sư Việt Nam và các Đoàn luật sư cung cấp ý kiến của các luật gia, luật sư về các vấn đề pháp lý liên quan đến tình hình thi hành pháp luật; (4) Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hội nghề nghiệp cung cấp ý kiến của các doanh nghiệp, của các hội viên về tính kịp thời, đầy đủ trong thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tính chính xác, thống nhất trong hướng dẫn, áp dụng pháp luật và trong áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tính thống nhất, đồng bộ và tính khả thi của văn bản pháp luật; (5) Các cơ quan thông tin đại chúng cung cấp ý kiến phản ánh của dư luận xã hội về tình hình thi hành pháp luật.
- Trong trường hợp cần thiết, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp đề nghị cơ quan, tổ chức liên quan cử đại diện tham gia các hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
(2) Quy định về cơ chế huy động sự tham gia, phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động theo dõi thi hành pháp luật:
- Các tổ chức, cá nhân có thể trực tiếp đến phòng Tiếp công dân hoặc gửi văn bản hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng phản ánh, cung cấp thông tin về tình hình thi hành pháp luật cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trong phạm vi, chức năng nhiệm vụ của mình, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp có trách nhiệm tiếp nhận, xác minh và xử lý thông tin được cung cấp.
- Căn cứ điều kiện cụ thể và yêu cầu của công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật, người đứng đầu tổ chức pháp chế Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng Phòng Tư pháp cấp huyện, công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã, Trưởng phòng pháp chế cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh tham mưu, giúp Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các cấp huy động sự tham gia của các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực pháp luật liên quan hoặc cá nhân am hiểu chuyên môn về ngành, lĩnh vực cần theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
Cộng tác viên theo dõi thi hành pháp luật thực hiện theo chế độ hợp đồng thường xuyên hoặc theo từng vụ việc cụ thể.
(3) Quy định về việc xây dựng và duy trì chuyên mục Tình hình thi hành pháp luật trên Cổng thông tin điện tử:
- Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh, cấp huyện xây dựng chuyên mục Tình hình thi hành pháp luật trên Cổng thông tin điện tử của để thu thập thông tin về tình hình thi hành pháp luật. Tổ chức pháp chế Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp là bộ phận thường trực giúp Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện duy trì hoạt động của chuyên mục Tình hình thi hành pháp luật.
- Các mục chủ yếu trong chuyên mục Tình hình thi hành pháp luật: (1) mục Tin tức sự kiện: đăng tải các tin, bài về hoạt động, các vấn đề liên quan thuộc phạm vi quản lý nhà nước về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp; (2) mục Thông tin về thống kê tình hình thi hành pháp luật: đăng tải các số liệu thống kê, báo cáo về công tác thi hành pháp luật; ý kiến xử lý hoặc phản hồi với các kiến nghị; (3) mục cung cấp thông tin giao dịch: đăng tải địa chỉ, số điện thoại, số fax, địa chỉ thư điện tử chính thức để tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của tổ chức, cá nhân về tình hình thi hành pháp luật.
- Việc cung cấp, tiếp nhận và xử lý thông tin trên chuyên mục thực hiện theo quy chế hoạt động Cổng thông tin điện tử.
3. VỀ NỘI DUNG THEO DÕI THI HÀNH PHÁP LUẬT
3.1. Quy định của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP: căn cứ vào mục đích và yêu cầu cụ thể, tình hình thi hành pháp luật có thể được xem xét, đánh giá trên nhiều phương diện với các nội dung khác nhau. Mục đích và yêu cầu của công tác theo dõi thi hành pháp luật là nhằm xem xét, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật, kiến nghị thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Để xem xét, đánh giá một cách toàn diện về thực trạng thi hành pháp luật, cần phải xem xét, đánh giá về những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổ chức thi hành pháp luật, quá trình thi hành pháp luật và những biểu hiện của tình hình thi hành pháp luật. Theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, để đánh giá thực trạng thi hành pháp luật cần xem xét, đánh giá trên 03 phương diện tương ứng với 03 nội dung cụ thể: (1) tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật; (2) tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật; (3) tình hình tuân thủ pháp luật. Tương ứng với 03 nội dung xem xét, đánh giá tình hình thi hành pháp luật, tại Điều 8, Điều 9 và Điều 10 Nghị định đưa ra quy định cụ thể về các tiêu chí để xem xét, đánh giá với từng nội dung này. Theo đó, nội dung xem xét, đánh giá tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật gồm: (1) tính kịp thời, đầy đủ của việc ban hành văn bản quy định chi tiết; (2) Tính thống nhất, đồng bộ của văn bản; (3) tính khả thi của văn bản. Nội dung xem xét, đánh giá tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật gồm: (1) tính kịp thời, đầy đủ, phù hợp và hiệu quả của hoạt động tập huấn, phổ biến pháp luật; (2) tính phù hợp của tổ chức bộ máy; mức độ đáp ứng về nguồn nhân lực cho thi hành pháp luật; (3) mức độ đáp ứng về kinh phí, cơ sở vật chất bảo đảm cho thi hành pháp luật. Nội dung xem xét, đánh giá tình hình tuân thủ pháp luật: (1) tính kịp thời, đầy đủ trong thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền; (2) tính chính xác, thống nhất trong hướng dẫn áp dụng pháp luật và trong áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền; (3) mức độ tuân thủ pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
3.2. Yêu cầu và đề xuất nội dung hoàn thiện
(1) Quy định cụ thể về việc xem xét, đánh giá tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật: Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp xem xét, đánh giá tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật như sau:
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ rà soát nội dung quy định giao quyền ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành trong các Luật, Nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước; Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Chương trình xây dựng Nghị định của Chính phủ; Kế hoạch công tác của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; UBND cấp tỉnh căn cứ Chương trình xây dựng Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Chương trình xây dựng Quyết định, Chỉ thị, Kế hoạch công tác của UBND cấp tỉnh để tổng hợp số lượng, hình thức và tên văn bản, trách nhiệm của cơ quan xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đối chiếu với các văn bản đã được ban hành, phát hiện các văn bản chưa được ban hành hoặc được ban hành chậm hơn so với yêu cầu, xem xét, đánh giá nguyên nhân, kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phương án xử lý.
- Rà soát, kiểm tra để phát hiện, thống kê các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, không bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ theo quy định của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Từ kết quả của hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính, hoạt động điều tra, khảo sát và từ phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng, dư luận xã hội, phát hiện, thống kê các văn bản quy phạm pháp luật và các quy định pháp luật cụ thể không bảo đảm tính khả thi hoặc có khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành, đánh giá nguyên nhân, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các giải pháp khắc phục.
(2) Quy định về việc xem xét, đánh giá tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật: Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp xem xét, đánh giá tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật như sau:
- Xác định nhu cầu của công tác tập huấn, phổ biến pháp luật đối với từng lĩnh vực và đối tượng cụ thể, đối chiếu với các hoạt động, các nội dung, hình thức, đối tượng tập huấn, phổ biến do các cơ quan, tổ chức đã thực hiện, đánh giá tính đầy đủ, kịp thời và phù hợp của hoạt động tập huấn, phổ biến pháp luật; từ kết quả hoạt động điều tra, khảo sát và các hoạt động khác có liên quan, xem xét, đánh giá tác động của công tác tập huấn, phổ biến pháp luật đến ý thức tuân thủ pháp luật và mức độ nâng cao nhận thức pháp luật của các cơ quan, tổ chức, công dân, kiến nghị các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác tập huấn, phổ biến pháp luật.
- Xem xét, đánh giá tính chất và khối lượng công việc của từng nhiệm vụ, lĩnh vực cụ thể, xác định nhu cầu về tổ chức bộ máy, số lượng, chất lượng cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu của công tác thi hành pháp luật, so sánh, đối chiếu với thực trạng tình hình bảo đảm, đánh giá về sự phù hợp của tổ chức bộ máy, mức độ đáp ứng về nguồn nhân lực, kiến nghị cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền thực hiện các giải pháp phù hợp.
- Xem xét, đánh giá tính chất và khối lượng công việc của từng nhiệm vụ, lĩnh vực cụ thể, xác định nhu cầu về kinh phí, trang thiết bị và cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu của công tác thi hành pháp luật, so sánh, đối chiếu với thực trạng tình hình bảo đảm, đánh giá về mức độ phù hợp của việc bảo đảm, kiến nghị cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền thực hiện các giải pháp phù hợp.
(3) Quy định về việc xem xét, đánh giá tình hình tuân thủ pháp luật: Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp xem xét, đánh giá tình hình tuân thủ pháp luật như sau:
- Xem xét, phát hiện, thống kê những văn bản quy phạm pháp luật và những quy định cụ thể không được các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền thi hành một cách kịp thời, đầy đủ, đánh giá nguyên nhân và kiến nghị thực hiện các biện pháp khắc phục.
- Xem xét, phát hiện, thống kê những quy định do các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền hướng dẫn không chính xác, không thống nhất; thu thập các thông tin về tình hình ban hành các quyết định áp dụng pháp luật, phát hiện các quyết định áp dụng pháp luật do cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền ban hành vi phạm về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, các quyết định không bảo đảm tính chính xác, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và công dân, gây bức xúc trong dư luận xã hội, đánh giá nguyên nhân và kiến nghị cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền đưa ra biện pháp xử lý cụ thể.
- Thu thập thông tin về tình hình vi phạm pháp luật, các hành vi vi phạm pháp luật phổ biến và điển hình trong từng thời kỳ, phân tích, đánh giá nguyên nhân của tình hình vi phạm, kiến nghị các giải pháp hạn chế vi phạm pháp luật.
4. VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG THEO DÕI THI HÀNH PHÁP LUẬT
4.1. Quy định của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP: theo quy định tại Chương III Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, thì theo dõi tình hình thi hành pháp luật gồm các hoạt động: (1) thu thập thông tin về tình hình thi hành pháp luật; (2) kiểm tra tình hình thi hành pháp luật; (3) điều tra, khảo sát tình hình thi hành pháp luật; (4) xử lý kết quả theo dõi thi hành pháp luật.
- Thu thập thông tin về tình hình thi hành pháp luật: thu thập thông tin về tình hình thi hành pháp luật là hoạt động rất quan trọng trong theo dõi thi hành pháp luật. Tính khách quan, chính xác của các thông tin có tính chất quyết định đến tính khách quan, chính xác của hoạt động xem xét, đánh giá về tình hình thi hành pháp luật. Để các cơ quan theo dõi thi hành pháp luật có cơ sở thực hiện nhiệm vụ này, đồng thời có thể huy động các phương tiện thông tin đại chúng, các tầng lớp xã hội trong việc cung cấp thông tin về tình hình thi hành pháp luật, Điều 11 Nghị định quy định về các nguồn thông tin. Theo đó, thông tin về tình hình thi hành pháp luật được thu thập từ 02 nguồn chủ yếu: (1) Báo cáo của các cơ quan nhà nước và (2) các thông tin được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng và thông tin do tổ chức, cá nhân cung cấp.
Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định cụ thể về các nội dung thông tin được thu thập từ báo cáo của các cơ quan nhà nước, gồm: (1) số lượng, hình thức và tên văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật; số lượng, hình thức và tên văn bản ban hành chậm tiến độ và lý do chậm tiến độ; số lượng văn bản không thống nhất, không đồng bộ và tính khả thi không cao; (2) nội dung, hình thức tập huấn, phổ biến pháp luật đã được thực hiện; thực trạng về tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực, các điều kiện về kinh phí và cơ sở vật chất bảo đảm cho thi hành pháp luật; (3) tình hình hướng dẫn áp dụng pháp luật, tình hình áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền; (4) tình hình xử lý vi phạm pháp luật. Đối với các thông tin được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng và thông tin do tổ chức, cá nhân cung cấp phải được kiểm tra, đối chiếu trước khi sử dụng để đánh giá tình hình thi hành pháp luật.
Để tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp các thông tin về tình hình thi hành pháp luật, Nghị định quy định về cách thức cung cấp thông tin. Theo đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể trực tiếp cung cấp thông tin về tình hình thi hành pháp luật hoặc qua Trang thông tin điện tử của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các cấp.
- Kiểm tra tình hình thi hành pháp luật: kiểm tra là một hoạt động quan trọng, không thể thiếu trong quản lý nhà nước nói chung và trong theo dõi thi hành pháp luật nói riêng. Để việc kiểm tra tình hình thi hành pháp luật được triển khai một cách thuận lợi, thống nhất và cũng để phân biệt kiểm tra tình hình thi hành pháp luật với các hoạt động quản lý nhà nước khác, Điều 12 Nghị định quy định về kiểm tra tình hình thi hành pháp luật. Theo đó, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp kiểm tra tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi trách nhiệm được quy định nhằm kịp thời phát hiện khó khăn, vướng mắc, hạn chế trong thi hành pháp luật và khiếm khuyết, bất cập của hệ thống pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng kiểm tra có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của cơ quan tiến hành kiểm tra theo quy định của pháp luật.
- Điều tra, khảo sát tình hình thi hành pháp luật: Điều 13 Nghị định quy định về điều tra, khảo sát tình hình thi hành pháp luật. Theo đó, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp điều tra, khảo sát theo yêu cầu của tình hình thi hành pháp luật về từng lĩnh vực, địa bàn và đối tượng cụ thể thông qua phiếu khảo sát, tọa đàm, phỏng vấn trực tiếp và các hình thức phù hợp khác. Hoạt động điều tra, khảo sát có thể được thực hiện theo cơ chế cộng tác viên.
- Xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật: theo quy định tại Điều 14 Nghị định, căn cứ kết quả thu thập thông tin, kết quả kiểm tra, điều tra, khảo sát tình hình thi hành pháp luật, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền có trách nhiệm xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Nội dung xử lý kết quả theo dõi thi hành pháp luật gồm: (1) ban hành kịp thời, đầy đủ các văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật; (2) thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tập huấn, phổ biến pháp luật; bảo đảm về tổ chức, biên chế, kinh phí và các điều kiện khác cho thi hành pháp luật; (3) kịp thời tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật đã có hiệu lực; (4) thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm tính chính xác, thống nhất trong hướng dẫn áp dụng pháp luật và trong áp dụng pháp luật; (5) sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật; (6) thực hiện các biện pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Để bảo đảm cho việc xử lý kết quả theo dõi thi hành pháp luật được triển khai trên thực tế, Nghị định quy định các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật theo đề nghị của Bộ Tư pháp hoặc của Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ. UBND cấp dưới có trách nhiệm xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật theo yêu cầu của UBND cấp trên trực tiếp.
4.2. Yêu cầu và đề xuất nội dung hoàn thiện
(1) Quy định về hoạt động kiểm tra tình hình thi hành pháp luật:
- Kiểm tra tình hình thi hành pháp luật được thực hiện theo Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật hoặc khi có những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành hoặc theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Nội dung kiểm tra tình hình thi hành pháp luật được thực hiện theo quy định tại Điều 8, Điều 9 và Điều 10 của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, trong đó tập trung kiểm tra tình hình tuân thủ pháp luật được quy định tại Điều 10 của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP.
- Bộ Tư pháp kiểm tra tình hình thi hành pháp luật đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các cấp. Bộ, cơ quan ngang Bộ kiểm tra tình hình hình thi hành pháp luật đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các cấp trong phạm vi lĩnh vực quản lý. UBND cấp trên kiểm tra tình hình thi hành pháp luật đối với các cơ quan chuyên môn trực thuộc và đối với UBND cấp dưới trong phạm vi địa bàn thuộc thẩm quyền quản lý.
- Căn cứ Kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, người đứng đầu tổ chức pháp chế đề nghị Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thành lập Đoàn kiểm tra để kiểm tra tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý.
Căn cứ Kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật của địa phương, Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng Phòng Tư pháp và công chức Tư pháp - Hộ tịch đề nghị Chủ tịch UBND cùng cấp thành lập Đoàn kiểm tra để kiểm tra tình hình thi hành pháp luật ở địa phương.
Quyết định thành lập Đoàn kiểm tra nêu rõ nội dung, kế hoạch làm việc của Đoàn kiểm tra, thành phần Đoàn kiểm tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng chịu sự kiểm tra. Quyết định thành lập Đoàn kiểm tra được thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng chịu sự kiểm tra chậm nhất là bảy ngày, trước ngày bắt đầu tiến hành kiểm tra.
- Trình tự, thủ tục kiểm tra được thực hiện theo quy định về kiểm tra hành chính. Cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng chịu sự kiểm tra báo cáo bằng văn bản, cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung kiểm tra; giải trình những vấn đề thuộc nội dung kiểm tra. Đoàn kiểm tra hoặc người có thẩm quyền kiểm tra xem xét, xác minh, kết luận về những vấn đề thuộc nội dung kiểm tra.
Sau thời hạn bảy ngày, kể từ khi kết thúc việc kiểm tra, Đoàn kiểm tra báo cáo người ra quyết định kiểm tra về kết quả kiểm tra.
- Trong quá trình kiểm tra phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Đoàn kiểm tra và người có thẩm quyền kiểm tra kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm, khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
(2) Quy định về hoạt động điều tra, khảo sát tình hình thi hành pháp luật:
- Căn cứ vào Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp chỉ đạo xây dựng Kế hoạch điều tra, khảo sát tình hình thi hành pháp luật, trong đó xác định mục đích, đối tượng, nội dung, địa bàn, thời gian, cách thức thực hiện điều tra, khảo sát.
- Việc điều tra, khảo sát tập trung vào các nội dung nhằm đánh giá về tính khả thi của văn bản; tính kịp thời, đầy đủ, tính phù hợp và hiệu quả của hoạt động tập huấn, phổ biến pháp luật; tính kịp thời, đầy đủ trong hướng dẫn áp dụng và thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền; tình hình tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ chức, công dân.
- Việc điều tra, khảo sát được tập trung thực hiện với các đối tượng sau đây: (1) người làm công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực điều tra, khảo sát; (2) tổ chức, cá nhân là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của lĩnh vực pháp luật điều tra, khảo sát; (3) các tổ chức xã hội, nghề nghiệp.
- Kết thúc điều tra, khảo sát, cơ quan chủ trì điều tra, khảo sát xây dựng Báo cáo điều tra, khảo sát, trong đó đưa ra các nhận định, đánh giá khách quan về tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực và địa bàn tiến hành điều tra, khảo sát; kiến nghị các biện pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
TS.Trần Văn Đạt