Tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta trong thời gian qua luôn song hành và gắn liền với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Cùng với đó, là yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, lấy thượng tôn pháp luật làm nguyên tắc nền tảng cho các hoạt động tổ chức, quản lý xã hội; bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành.
Như vậy, một trong những yêu cầu cụ thể mà cải cách tư pháp hướng đến chính là khẳng định vị trí, vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng - đây là công đoạn cuối cùng, liên tục của quá trình tố tụng nhằm hiện thực hóa bản án, quyết định của Tòa án; thực thi công lý, bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, công dân; góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1. Lần đầu tiên Đảng ta ban hành văn kiện chuyên đề, ghi nhận một cách toàn diện về công tác cải cách tư pháp, trong đó có lĩnh vực thi hành án dân sự
Từ những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, chính thức khẳng định vị trí, tầm quan trọng của công tác này, ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Trên cơ sở tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 49-NQ/TW), với một vị thế và tầm nhìn mới, dài lâu hơn; đặt mục tiêu “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.
Liên quan trực tiếp đến công tác thi hành án, Nghị quyết yêu cầu: (i) Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án; (ii) Từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án; (iii) Nghiên cứu chế định thừa phát lại (thừa hành viên); trước mắt, có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo.
Nghị quyết cũng đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp thực hiện gồm: (i) Hoàn thiện chính sách, pháp luật bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển lành mạnh; hoàn thiện chế định hợp đồng, bồi thường, bồi hoàn…; xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành; (ii) Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án; nghiên cứu mô hình tổ chức để phù hợp với định hướng tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; (iii) Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ; tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức danh; (iv) Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc.
Để phù hợp với tình hình thực tế, ngày 12/3/2014, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 92-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW và điều chỉnh một số nội dung của Nghị quyết, trong đó: “Dừng việc thực hiện chủ trương chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án. Tiếp tục thực hiện mô hình tổ chức các cơ quan thi hành án như hiện nay…” và không thực hiện việc “xây dựng Bộ luật Thi hành án điều chỉnh tất cả các lĩnh vực thi hành án…” theo tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020.
2. Một số kết quả nổi bật đã đạt được trong việc triển khai thực hiện chủ trương cải cách tư pháp đối với công tác thi hành án dân sự thời gian qua
Thứ nhất, chính sách pháp luật và hành lang pháp lý về thi hành án dân sự ngày càng được hoàn thiện, đồng bộ tạo cơ sở vững chắc, ổn định và điều kiện thuận lợi cho hoạt động thi hành án dân sự.
Đến nay, pháp luật về thi hành án dân sự (THADS) đã tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ, gồm: Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), 03 nghị định, 02 chỉ thị, 10 thông tư liên tịch và 17 thông tư hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự. Cùng với đó, các quy định pháp luật có liên quan trực tiếp đến hoạt động THADS cũng từng bước được hoàn thiện, đồng bộ, thống nhất như Luật Giá năm 2012, Luật Phá sản năm 2014, Luật Đấu giá tài sản năm 2016, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2019 và năm 2017, Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng...
Thứ hai, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức được kiện toàn, chuyên nghiệp hóa, từng bước ngang tầm với nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao.
Từ năm 2008 đến nay, cơ quan THADS được tổ chức thành hệ thống dọc từ trung ương đến địa phương, bảo đảm nguyên tắc tập trung thống nhất. Cơ cấu ngạch công chức đã được quan tâm, bổ sung tăng tỷ lệ công chức giữ chức danh tư pháp để đảm bảo nguồn lực tổ chức thi hành án. Đến nay, số lượng công chức giữ chức danh tư pháp, trực tiếp làm công tác THADS trong toàn hệ thống là 9.088 biên chế, trong đó có 4.214 chấp hành viên; 788 thẩm tra viên; 1.702 thư ký, còn lại chuyên viên và các ngạch công chức khác. Công tác thi tuyển, thi nâng ngạch, chuyển ngạch được thực hiện theo hình thức tập trung, đảm bảo tính chất cạnh tranh, chuẩn hóa cán bộ, chú trọng tuyển dụng nguồn nhân lực có chất lượng cao. Công tác đào tạo, bồi dưỡng tiếp tục được quan tâm với nội dung, chương trình phù hợp hơn với từng đối tượng và thực tiễn công tác thi hành án, theo đúng yêu cầu về điều kiện, tiêu chuẩn từng vị trí việc làm. Chế độ chính sách, đãi ngộ đối công chức, người lao động từng bước được quan tâm thực hiện, góp phần khuyến khích, động viên công chức yên tâm công tác, gắn bó với nghề. Kỷ luật, kỷ cương hành chính được tăng cường, bảo đảm nguyên tắc tập trung thống nhất trong quản lý ngành dọc, đề cao trách nhiệm người đứng đầu.
Thứ ba, các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc, công cụ hỗ trợ và công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành cơ bản được quan tâm đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.
Đến hết năm 2019, Bộ Tư pháp đã đầu tư xây dựng được 770/773 trụ sở làm việc cơ quan THADS gồm: 63/63 trụ sở cơ quan cấp tỉnh; 707/710 trụ sở cơ quan cấp huyện. Đối với trụ sở kho vật chứng, đã đầu tư 318/773 trụ sở kho vật chứng, trong đó có 61/63 trụ sở kho vật chứng cấp tỉnh và 257/710 trụ sở kho vật chứng cấp huyện, bước đầu bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động của cơ quan THADS theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW. Ðể hiện đại hóa hoạt động quản lý, từ năm 2018, Tổng cục Thi hành án dân sự đã tích cực triển khai trên toàn quốc phần mềm về quản lý nghiệp vụ THADS. Bộ Tư pháp đã xây dựng và đang tiếp tục phát triển hệ thống truyền hình trực tuyến đa phương tiện đến 63 địa phương, tiến tới đang nghiên cứu phương án chuẩn bị điều kiện để tổ chức giao ban, hội nghị trực tuyến đến cấp Chi cục trên toàn quốc.
Thứ tư, cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác chuyên môn nghiệp vụ được đẩy mạnh, góp phần tạo sự minh bạch, công khai trong hoạt động thi hành án.
Thực hiện chủ trương về hiện đại hóa điều kiện, phương tiện làm việc đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, Bộ Tư pháp, hệ thống THADS đã tập trung triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức thi hành án, coi đây là giải pháp đột phá trong công tác THADS; vận hành hiệu quả cổng, trang thông tin điện tử, đăng tải công khai danh sách người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án, rà soát, công bố các thủ tục hành chính, phần mềm quản lý quá trình thụ lý, tổ chức thi hành án và báo cáo thống kê THADS. Từ ngày 01/6/2017, đã thống nhất trên toàn quốc thực hiện cơ chế một cửa, hỗ trợ trực tuyến và tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích; qua đó góp phần rút ngắn thời gian thi hành án, nêu cao tinh thần phục vụ người dân, doanh nghiệp.
Thứ năm, kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị thi hành án về việc, về tiền ngày càng cao, có xu hướng bền vững và cơ bản đạt, vượt các chỉ tiêu Quốc hội giao.
Có thể khẳng định rằng, phản ánh trực tiếp và rõ nét nhất về thực hiện các chủ trương về cải cách tư pháp trong lĩnh vực THADS phải kể đến đó chính là kết quả thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao; thu về cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân hàng ngàn tỷ đồng mỗi năm. Cụ thể, theo báo cáo thống kê trong những năm gần đây cho thấy: Năm 2011, thi hành xong 379.990 việc và trên 10.167 tỷ đồng; năm 2012, thi hành xong 395.284 việc và trên 10.344 tỷ đồng; năm 2013, thi hành xong 492.975 việc và trên 28.965 tỷ đồng; năm 2014, thi hành xong 531.095 việc và trên 38.981 tỷ đồng; năm 2015, thi hành xong 533.985 việc và trên 42.819 tỷ đồng; năm 2016, thi hành xong 530.428 việc và trên 29.097 tỷ đồng; năm 2017, thi hành xong 549.415 việc và trên 35.242 tỷ đồng; năm 2018, thi hành xong 571.708 việc và trên 34.520 tỷ đồng; năm 2019, thi hành xong 579.256 việc và trên 52.715 tỷ đồng.
Việc kiên quyết thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án tham nhũng, kinh tế trong thời gian qua đã và đang nhận được nhiều sự đồng tình, ủng hộ của dư luận xã hội (năm 2017 thu hồi trên 07 nghìn tỷ đồng, năm 2018 là gần 03 nghìn tỷ đồng, năm 2019 là trên 16.504 tỷ đồng). Công tác THADS cũng trực tiếp góp phần tích cực xử lý nợ xấu, giải phóng các nguồn lực “đóng băng” trong tranh chấp (năm 2017 đã giải phóng trên 27 nghìn tỷ đồng, năm 2018 là trên 24 nghìn tỷ đồng, năm 2019 và sáu tháng đầu năm 2020 là trên 24.250).
3. Những vấn đề đang đặt ra - thách thức đối với công tác thi hành án dân sự
Mặc dù đã được hoàn thiện một bước, song thể chế, pháp luật về THADS và một số lĩnh vực có liên quan (đất đai, tín dụng, đấu giá tài sản...) còn thiếu đồng bộ, khả thi. Chính sách pháp luật về công khai, minh bạch, đăng ký và quản lý tài sản, quản lý dòng tiền đang trong quá trình hoàn thiện; công tác quản lý, sử dụng vốn nhà nước còn một số kẽ hở; hoạt động tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh của một số tổ chức tín dụng còn thiếu chặt chẽ; còn thiếu quy định về chính sách đãi ngộ, cơ chế bảo vệ cho chấp hành viên, công chức thi hành án khi thi hành công vụ; chế tài xử lý đối với việc trốn tránh, chống đối việc thi hành án chưa đủ mạnh, nhất là trong lĩnh vực thi hành án hành chính… Một số chủ trương lớn về cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW chưa được hiện thực hóa đồng bộ.
Thực tế cho thấy, số việc và tiền thụ lý tại các cơ quan THADS ngày càng nhiều và tiếp tục tăng cao qua các năm; tính chất, quy mô các vụ việc đa dạng và phức tạp, đặc biệt là các tranh chấp có yếu tố nước ngoài có xu hướng gia tăng, các loại tội phạm tham nhũng, kinh tế ngày càng tinh vi, quy mô lớn, ở diện rộng. Tổng số việc còn phải thi hành chuyển sang kỳ sau qua các năm tuy có giảm nhưng vẫn cao. Một số lượng án có điều kiện nhưng chưa tổ chức thi hành xong; số không có điều kiện thi hành án, nhất là về tiền vẫn chiếm tỷ lệ cao so với tổng số tiền phải thi hành. Nhiều vụ án tham nhũng, thu hồi tài sản cho Nhà nước, giá trị phải thi hành lớn nhưng khả năng thi hành thấp. Công tác phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành chưa thật sự nhịp nhàng, hiệu quả. Nhiều vụ việc đương sự lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo, khiếu nại nhiều lần, vượt cấp, gửi đơn đến nhiều cơ quan, ban ngành với nội dung không chính xác để kéo dài tiến độ giải quyết án, nhưng chưa có biện pháp xử lý dứt điểm. Hoạt động thừa phát lại còn nhiều lúng túng, hiệu quả công tác THADS chưa cao. Vẫn còn có tình trạng chấp hành viên, lãnh đạo quản lý chưa sát sao công việc, còn để xảy ra sai sót, vi phạm trong thực hiện trình tự, thủ tục thi hành án. Ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án còn chưa cao. Cơ sở vật chất của các cơ quan THADS còn khó khăn, nhất là tình trạng thiếu kho vật chứng, trụ sở làm việc…
4. Hướng tới sự phát triển ổn định, bền vững hơn, trong thời gian tới, công tác thi hành án dân sự cần tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu như sau:
Một là, triển khai nhất quán việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng trong công tác thi hành án dân sự.
Tiếp tục quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả những chủ trương, chính sách lớn trong hoạt động THADS, đặc biệt là các nghị quyết về tăng cường, xây dựng chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Nghị quyết về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gắn với chỉ thị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, qua đó tiếp tục xây dựng các cơ quan THADS trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao mức độ tín nhiệm của nền kinh tế.
Tập trung nghiên cứu sâu sắc, tham mưu hiệu quả, chất lượng về công tác cải cách tư pháp gắn với việc tổng kết 15 năm (2005 - 2020) thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, qua đó tiếp tục khẳng định vai trò của công tác THADS trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, quyền con người, quyền công dân; đề xuất hoàn thiện đường lối lãnh đạo của Đảng đối với công tác THADS nói chung và cơ chế thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự, các vụ án tham nhũng, kinh tế.
Hai là, hoàn thiện thể chế và tổ chức thi hành hiệu quả các văn bản pháp luật về thi hành án dân sự.
Tập trung nghiên cứu, tổng hợp những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật về THADS để kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ những vướng mắc từ thực tiễn; đồng thời tham mưu kịp thời sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự, bảo đảm hiệu quả, rút ngắn thời gian, quy trình thủ tục thực hiện. Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện thể chế nhằm bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất, nâng cao hiệu quả công tác THADS như các quy định về xử lý nợ xấu; sử dụng tiền mặt; kiểm soát tài sản, thu nhập cá nhân; thẩm định giá tài sản, bán đấu giá tài sản; áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình tố tụng; xử lý nợ xấu; phòng, chống tham nhũng; đăng ký tài sản; quản lý dòng tiền; giá; giám định tư pháp; phá sản; tương trợ tư pháp...
Ba là, đẩy mạnh việc hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án dân sự.
Tập trung chỉ đạo quyết liệt việc tổ chức thi hành án, nhất là đối với những vụ việc trọng điểm, phức tạp, những vụ án liên quan đến tham nhũng, tín dụng, ngân hàng, những địa bàn, địa phương có lượng án lớn. Có giải pháp cụ thể, hữu hiệu thu hẹp dần lượng án tồn đọng hằng năm, chú trọng nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, bảo đảm hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ THADS được Quốc hội giao tại Nghị quyết số 96/2019/QH14 ngày 27/11/2019 về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án.
Bốn là, công tác tổ chức cán bộ.
Tiếp tục quán triệt triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp... về kỷ luật, kỷ cương hành chính, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Quy định số 101-QĐ/TW ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị về một số vấn đề cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên; Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 05/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp; Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 22/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong giải quyết công việc và Chỉ thị số 02/CT-BTP ngày 25/3/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp không uống rượu, bia trong ngày làm việc.
Bám sát các nhiệm vụ, giải pháp theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW liên quan đến cải cách hành chính; sắp xếp, thu gọn đầu mối bên trong các tổ chức của hệ thống THADS; tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống THADS, bảo đảm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao. Chú trọng công tác bố trí, sử dụng cán bộ ở các khâu, các bước: Giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; tuyển dụng, sắp xếp vị trí việc làm, bổ nhiệm, quy hoạch, đào tạo, điều động, luân chuyển, biệt phái; chính sách thu hút nhân tài… Nghiên cứu mô hình tổ chức cơ quan THADS khu vực sau khi có chủ trương thành lập các Tòa án khu vực. Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất mô hình thống nhất đầu mối cơ quan quản lý nhà nước về công tác vào thời điểm thích hợp.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương và công tác phối hợp liên ngành.
Kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn công tác phối hợp THADS ở cấp trung ương và cấp địa phương, đặc biệt là phối hợp trong hướng dẫn nghiệp vụ, cưỡng chế thi hành án và thống kê liên ngành. Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương trong quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng trong hoạt động THADS; kịp thời uốn nắn các tổ chức cơ sở Đảng tại các Cục, Chi cục có biểu hiện vi phạm Điều lệ Đảng, thiếu ổn định, đoàn kết. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, kiểm tra, giám sát việc tu dưỡng rèn luyện của công chức đảng viên trên địa bàn. Chỉ đạo công tác phối hợp với các cơ quan liên quan trên địa bàn và tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Sáu là, nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.
Tiếp tục đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự theo phương châm “hướng về cơ sở”. Củng cố và tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính và lề lối làm việc đáp ứng yêu cầu của mô hình quản lý tập trung thống nhất theo hệ thống ngành dọc. Tăng cường trách nhiệm người đứng đầu trong thực hiện kỷ luật, kỷ cương hành chính và hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ tại đơn vị. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát. Bố trí dự toán ngân sách hợp lý cho hoạt động THADS; đảm bảo điều kiện cần thiết, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, trụ sở và kho vật chứng; hướng dẫn, điều hành dự toán thu chi ngân sách hàng năm bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả. Tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế, chủ động, tích cực, tranh thủ hiệu quả kinh nghiệm của một số quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển và các chuẩn mực quốc tế góp phần hoàn thiện chính sách pháp luật về THADS trong thời gian tới. Đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ và quản lý, chỉ đạo, điều hành, góp phần rút ngắn thời gian thi hành án; xây dựng, đưa vào ứng dụng nền hành chính điện tử thông suốt, hiệu quả./.
Mai Lương Khôi
Ủy viên Ban cán sự, Thứ trưởng Bộ Tư pháp