I. VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
Trong điều kiện đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, công tác xây dựng pháp luật có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, đóng góp trực tiếp vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội của đất nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác này, thời gian qua, nhất là trong nhiệm kỳ 2016 – 2020, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương để lãnh đạo công tác xây dựng pháp luật. Báo cáo chính trị trình Đại hội Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã xác định: “
Trong những năm tới, đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội”. Các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng đã xác định rõ mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp cho công tác xây dựng pháp luật nhằm xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam bảo đảm đồng bộ, thống nhất, ổn định và minh bạch.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng pháp luật thể hiện qua nhiều nội dung khác nhau. Đảng hoạch định các đường lối, chủ trương phát triển đất nước, đồng thời lãnh đạo việc tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thi hành các đường lối, chủ trương đó. Đảng lãnh đạo việc thể chế hóa các đường lối, chủ trương đó thành pháp luật, cho chủ trương, định hướng đối với những chính sách pháp luật lớn, quan trọng, phức tạp.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng pháp luật được xác định khá rõ trong quy chế làm việc của các tổ chức Đảng, đồng thời được quy định cụ thể trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 có nhiều quy định đảm bảo đường lối, chủ trương của Đảng được thể chế hóa thành pháp luật, từ giai đoạn lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (xây dựng, phân tích, đánh giá, thẩm định và thông qua chính sách) đến giai đoạn soạn thảo, ban hành văn bản (soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, thông qua dự án, dự thảo). Các quy định của Luật đã góp phần bảo đảm các chính sách, pháp luật phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng. Các cơ quan trình, cơ quan thẩm tra đã thực hiện nghiêm việc xin ý kiến của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đảng Đoàn, Ban cán sự Đảng về các chính sách, vấn đề lớn, quan trọng tại các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật ở các giai đoạn khác nhau của quy trình lập pháp.
Các cơ quan Trung ương, tuy rất khác nhau về lĩnh vực hoạt động, vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức, nhưng đều tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật ở những công đoạn khác nhau, với nội dung và cách thức khác nhau, và đều có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác xây dựng pháp luật nhằm xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, khả thi, gắn với tổ chức thi hành pháp luật nghiêm minh. Công tác này, có lẽ cũng là lĩnh vực công tác mà các tổ chức Đảng trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương có thể phối hợp với nhau được nhiều nhất, đồng thời cũng đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ nhất giữa các tổ chức Đảng trong Đảng bộ Khối.
II. KẾT QUẢ CÔNG TÁC XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng pháp luật trong thời gian qua đạt nhiều thành tựu quan trọng. Hệ thống pháp luật nước ta ngày càng hoàn thiện, tập trung thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, nâng cao chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật, nhiều văn bản được sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện để phù hợp với tình hình mới, nhất là để triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Trong giai đoạn 2016 - 2020, Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành hàng trăm luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chính phủ ban hành 688 nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 180 quyết; các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành 2.510 thông tư, 199 thông tư liên tịch.
Có thể nói, đến nay, hệ thống pháp luật của nước ta cơ bản đầy đủ trên các lĩnh vực, đảm bảo tính thống nhất, minh bạch, khả thi, phù hợp với thông lệ quốc tế. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước được ban hành đầy đủ và không ngừng được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm sự vận hành thông suốt của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương. Pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân tiếp tục cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Pháp luật về dân sự, kinh tế tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với thể chế kinh tế thị trường hiện đại và thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thực hiện các cam kết quốc tế; nhiều vướng mắc, bất cập về thể chế đã được xử lý, góp phần thúc đẩy các hoạt động đầu tư, kinh doanh. Pháp luật về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thông tin, thể thao, du lịch, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, thể chế hóa quan điểm của Đảng trên từng lĩnh vực cụ thể, phù hợp với Hiến pháp và thực tiễn xã hội. Quy trình xây dựng luật, pháp lệnh được đổi mới theo hướng tách bạch quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo, bảo đảm sự phù hợp của luật, pháp lệnh với đường lối, chủ trương của Đảng, nâng cao tính công khai, minh bạch trong xây dựng chính sách.
Với tư cách là cơ quan tham mưu giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật, Ban cán sự đảng, Đảng ủy, Lãnh đạo Bộ Tư pháp luôn xác định công tác xây dựng pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, từ đó luân quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, ưu tiên dành nhiều nguồn lực cho công tác này. Trong nhiệm kỳ, công tác xây dựng pháp luật và quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp đạt được nhiều kết quả nổi bật. Bộ đã chủ động, tích cực phối hợp với các bộ, ngành tham mưu giúp Đảng, Quốc hội, Chính phủ trong việc xây dựng, triển khai và tổng kết có hiệu quả Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật; Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp. Công tác tham mưu giúp Chính phủ trình Quốc hội các chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết; xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ chương trình lập quy đảm bảo tính dự báo, có trọng tâm, trọng điểm, chất lượng ngày càng được nâng lên. Với việc áp dụng nhiều giải pháp mới, sát sao, quyết liệt hơn, việc ban hành văn bản quy định chi tiết các luật, pháp lệnh có nhiều chuyển biến tích cực, tình trạng nợ văn bản quy định chi tiết từng bước được khắc phục, số lượng văn bản “nợ ban hành” đã giảm nhiều so với thời gian trước. Bộ đã tham mưu giúp Chính phủ trình Quốc hội thông qua các luật quan trọng thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp. Đặc biệt, chất lượng công tác thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đã được nâng lên rõ rệt; công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, nhiều văn bản trái pháp luật đã được xử lý dứt điểm, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp; đề xuất các giải pháp chính sách, ý kiến pháp lý kịp thời ứng phó với các vấn đề mới phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế, quốc tế, tình hình dịch bệnh, tác động của Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4.
Có được những kết quả quan trọng này là nhờ vào sự quan tâm lãnh đạo của Đảng trong định hướng đường lối, chủ trương đối với công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật; sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; sự phối hợp chặt chẽ giữa Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ, Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao, Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cấp ủy, chính quyền địa phương.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật thời gian qua vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: (i) Việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng còn chậm; (ii) Hệ thống pháp luật còn cồng kềnh, phức tạp, tính ổn định chưa cao, vẫn còn một số quy định mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản; (iii) Công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa thực sự gắn với công tác tổ chức thi hành pháp luật; một số hạn chế, bất cập đã phát hiện trong thực tiễn còn chậm được xử lý; (iv) Tình trạng nợ ban hành văn bản quy định chi tiết chưa được khắc phục triệt để; (v) quy trình xây dựng pháp luật đã có nhiều đổi mới, tuy nhiên còn có sự cắt khúc, thiếu tính liên kết giữa khâu đề xuất, đánh giá tác động chính sách với khâu soạn thảo, chỉnh lý hoàn thiện dự thảo luật, pháp lệnh…
Các tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân thuộc về chủ quan như sau: (i) Nhận thức về tầm quan trọng, vai trò lãnh đạo của một số tổ chức, cấp ủy Đảng đối với công tác xây dựng pháp luật còn chưa đúng mức, từ đó chưa dành sự quan tâm, nguồn lực thỏa đáng cho công tác này; (ii) Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong xây dựng pháp luật chưa thực sự hiệu quả, còn nặng về thủ tục hành chính, thiếu tính chủ động và linh hoạt; (iii) Các điều kiện bảo đảm cho công tác xây dựng pháp luật còn nhiều hạn chế; đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật, pháp chế tại các bộ, ngành và địa phương thiếu về số lượng, phần lớn kiêm nhiệm, trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu, tính chuyên nghiệp chưa cao, cơ chế thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân, nhà khoa học trong xây dựng chính sách, pháp luật chưa hiệu quả.
III. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNG ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
Để phát huy hơn nữa những kết quả đạt được, nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, khắc phục triệt để những tồn tại, hạn chế như đã nêu, cần tiếp tục nghiên cứu thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó lưu ý một số điểm sau:
Một là, cần quán triệt đầy đủ, tổ chức thực hiện nghiêm các chủ trương, đường lối của Đảng, kịp thời thể chế hóa thành các quy định của pháp luật, nhất là Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng sắp tới. Triển khai có hiệu quả Kết luận số 83 của Bộ Chính trị tổng kết thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam; Kết luận số 84 tổng kết thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp. Nghiên cứu, đề xuất Ban Chấp hành Trung ương khóa mới xem xét, ban hành Nghị quyết về Chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm đồng bộ giữa cải cách pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp với hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận với chi phí tuân thủ thấp, phù hợp với thông lệ quốc tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Các nghị quyết của Đảng cũng cần xác định rõ nội dung cần được thể chế hóa, trên cơ sở đó giao nhiệm vụ cụ thể cho các tổ chức Đảng trong cơ quan Nhà nước trong việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách thành các quy phạm pháp luật. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là từ khía cạnh thể chế hóa thành pháp luật; định kỳ sơ kết, tổng kết, rà soát để đánh giá kết quả thực hiện, xác định rõ các nội dung đã hoàn thành; các nội dung cần tiếp tục chỉ đạo thực hiện.
Hai là, các cơ quan được giao chủ trì xây dựng văn bản pháp luật cần chú trọng đánh giá thấu đáo, toàn diện kết quả thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật trong tất cả các khâu của quá trình xây dựng pháp luật, từ việc tổng kết thực tiễn; xây dựng, đánh giá tác động của chính sách pháp luật; soạn thảo, trình văn bản đến khâu hoàn chỉnh dự thảo, trình ban hành văn bản. Đối với các vấn đề lớn, phức tạp cần kịp thời xin ý kiến chỉ đạo của Ban cán sự Đảng, Đảng Đoàn, các cấp ủy theo đúng quy định.
Bên cạnh việc đánh giá về sự phù hợp của chính sách pháp luật, dự thảo văn bản với chủ trương, đường lối của Đảng như trước đây, các cơ quan có thẩm quyền thẩm định, thẩm tra các dự án, dự thảo văn bản cần quan tâm đánh giá sâu về mức độ thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng trong dự án, dự thảo văn bản, chỉ rõ những nội dung trong chủ trương, đường lối của Đảng chưa được thể chế hóa.
Ba là, quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL; tăng cường và xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác xây dựng pháp luật, đồng thời chú trọng công tác kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện. Bên cạnh đó cần tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các các cơ quan trong quá trình soạn thảo, chỉnh lý, trình các dự án, dự thảo văn bản, nhất là trong các khâu lấy ý kiến góp ý; thẩm định; thẩm tra nhằm đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật.
Bốn là, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tham gia xây dựng pháp luật trong việc tham mưu hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật; xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Đội ngũ cán bộ xây dựng pháp luật phải nắm vững các chủ trương, đường lối của Đảng, biết cách vận dụng các chủ trương, đường lối đó trong việc xây dựng chính sách pháp luật và cụ thể hóa thành quy phạm pháp luật. Muốn vậy, đội ngũ này phải có bản lĩnh chính trị vững vàng; tích cực học tập, nghiên cứu các văn kiện của Đảng; có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ sâu rộng và kỹ năng lập pháp, lập quy. Để tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ tham gia xây dựng pháp luật cần hết sức quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng.
Năm là, bảo đảm sự tham gia đầy đủ, thực chất, hiệu quả của các tổ chức, các tầng lớp Nhân dân trong việc xây dựng, góp ý chính sách pháp luật, nhất là góp ý kiến đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Phát huy vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với dự thảo văn bản pháp luật, nhất là các văn bản có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam. Việc tổ chức lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động của văn bản quy phạm pháp luật phải khoa học, nội dung xin ý kiến phải cụ thể, hình thức lấy ý kiến phải đa dạng, phù hợp với đối tượng được lấy ý kiến; việc tổng hợp ý kiến góp ý phải đầy đủ; việc nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến đóng góp phải chân thành, nghiêm túc; những ý kiến không được tiếp thu phải giải trình cặn kẽ, thấu đáo. Có như vậy chúng ta mới đưa được cuộc sống vào luật và sau này mới có thể đưa được luật vào cuộc sống./.
Đảng bộ Bộ Tư pháp