Thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại và chủ trương chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập, đến nay, Việt Nam đã là thành viên tích cực, có trách nhiệm của hầu hết các tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu vực ở mọi tầng nấc, từ tiểu vùng như Hợp tác Mê Công, Hành lang Đông – Tây, đến Cộng đồng các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC), đến các tổ chức hợp tác ở tầm liên khu vực như Hội nghị thượng đỉnh Á – Âu (ASEM), Hội nghị Ngoại trưởng Diễn đàn Hợp tác khu vực Đông Á – Mỹ La Tinh (FEALAC), Nhóm các thị trường mới nổi thứ hai (CIVETS gồm: Colombia, Indonesia, Việt Nam, Egypt (Ai cập), Turkey (Thổ nhĩ kỳ) và South Africa (Nam Phi) với điểm chung là dân số trẻ và đông, chính trị tương đối ổn định, nền kinh tế đa dạng, hệ thống tài chính khá tốt, và đặc biệt là không bị lạm phát cao, mất cân bằng thương mại và nợ công đe dọa), Cộng đồng Pháp ngữ (Organisation Internationale de la Francophonie – OIF) và vươn tới cả những tổ chức quốc tế có tầm bao quát và phạm vi ảnh hưởng toàn cầu như Liên hợp quốc hay Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Trong lĩnh vực tư pháp, Việt Nam cũng đẩy mạnh gia nhập các điều ước quốc tế đa phương từ khu vực đến toàn cầu. Cụ thể là: tham gia, tổ chức các diễn đàn, hội nghị quốc tế về tư pháp và pháp luật như Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp các nước ASEAN, Diễn đàn pháp luật các nước ASEAN, Diễn đàn cải cách tư pháp Châu Á - Thái Bình Dương v.v.. Gần đây nhất là sự kiện đánh dấu những nỗ lực của Việt Nam trong việc tiếp cận các thiết chế pháp lý đa phương toàn cầu với việc gửi đơn xin gia nhập Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế và đã trở thành thành viên chính thức của Hội nghị này từ tháng 4/2013. Trong giai đoạn tới, cùng với việc tiếp tục tham gia các liên kết kinh tế sâu, rộng, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, thì việc tích cực, chủ động phát huy vai trò của Việt Nam, tăng cường các đề xuất, sáng kiến, ý tưởng tại các cơ chế đa phương là cần thiết, nhằm không chỉ thể hiện trách nhiệm của Việt Nam đối với cộng đồng khu vực và quốc tế mà còn phát huy vai trò và vị thế của đất nước. Đồng thời đó cũng là cơ hội để Việt Nam chủ động xây dựng và thực hiện các biện pháp bảo vệ các lợi ích của đất nước, người dân, các tổ chức và doanh nghiệp, cũng như phát hiện và khai thác các cơ hội hợp tác mới.
Bên cạnh đó, tầm quan trọng của việc tham gia các cơ chế đa phương về hợp tác tư pháp quốc tế tạo điều kiện cho phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã được khẳng định tại một loạt các văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Điều 12 Hiến pháp 2013 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”, “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Điều 50).
Đồng thời, Tại Nghị quyết 48 -NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về việc ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, nội dung về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nêu rõ: “Tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của WTO và các cam kết quốc tế khác. Xây dựng một khung pháp luật chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xoá bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư; từng bước thống nhất pháp luật áp dụng đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng theo hướng tôn trọng thoả thuận của các bên giao kết hợp đồng, không trái với đạo đức xã hội, không xâm phạm trật tự công cộng, phù hợp với tập quán, thông lệ thương mại quốc tế”.
Mới đây, tại Hội nghị về đối ngoại đa phương thế kỷ 21 và khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam ngày 12/8/2014, Thủ tướng Chính phủ cũng đã khẳng định: “Đối ngoại đa phương là phương tiện hữu hiệu để chúng ta triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa hội nhập quốc tế. Các thể chế, diễn đàn đa phương là nơi Việt Nam bảo vệ và thúc đẩy các lợi ích an ninh và phát triển; nâng cao vị thế của đất nước và hài hòa với các lợi ích chung; cùng chung tay giải quyết các thách thức toàn cầu và xây dựng quan hệ đối tác bình đẳng, cùng có lợi trên cơ sở đề cao vai trò của luật pháp quốc tế. Đồng thời, đây cũng là nơi chúng ta thể hiện tinh thần Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, đồng thời Thủ tướng đã chỉ đạo: “cần phải đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm, cách thức phối hợp liên ngành trong hoạt động đối ngoại nói chung và trong triển khai đối ngoại đa phương. Đây là thời điểm chúng ta cần và hoàn toàn có đủ điều kiện để chuyển mạnh từ tư duy “tham gia tích cực” sang “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”.
Trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế một cách toàn diện, sâu, rộng trên mọi lĩnh vực, nâng cao mức độ hội nhập kinh tế, trên cơ sở quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, phù hợp với Đề án định hướng tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế về pháp luật của Bộ Tư pháp giai đoạn 2013 – 2016, với tư cách là cơ quan chủ trì đàm phán các Hiệp định song phương và đa phương trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp, đặc biệt, với chủ trương xây dựng Bộ Tư pháp thành trung tâm của cả nước về tư pháp quốc tế, Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực tìm hiểu về các điều kiện gia nhập UNIDOIRT thông qua nghiên cứu Quy chế của tổ chức này và tìm hiểu kinh nghiệm các nước là thành viên của Viện. Đây là tiền đề quan trọng cho việc tiến hành các bước tiếp theo của Việt Nam trong tiến trình gia nhập Viện quốc tế về nhất thể hóa pháp luật tư.
Kết quả nghiên cứu về Viện quốc tế về nhất thể hóa pháp luật tư – UNIDROIT cho thấy việc gia nhập Viện quốc tế về nhất thể hóa pháp luật tư của Việt Nam là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Thực tế, UNIDROIT là một tổ chức quốc tế liên chính phủ với chức năng nghiên cứu và thực hiện các hoạt động hiện đại hoá, hài hoà hoá pháp luật tư, đặc biệt là luật thương mại giữa các quốc gia và các nhóm quốc gia có uy tín bậc nhất trên thế giới. Đây là tổ chức có quy mô toàn cầu, quy tụ được hầu hết các cường quốc trên thế giới, như Anh, Pháp, Nga, Đức, Hoa Kỳ, Trung Quốc... với 63 quốc gia thành viên đến từ 5 châu lục, đại diện cho nhiều hệ thống pháp luật, kinh tế, chính trị và truyền thống văn hoá khác nhau. Nó hoàn toàn có thể đáp ứng được những mong đợi về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực pháp luật của Việt Nam.
Việc gia nhập UNIDOIT sẽ góp phần đạt được hai mục tiêu cơ bản sau đây: i) Tạo cơ sở pháp lý quốc tế cho các quan hệ hợp tác, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp quốc tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế; ii) Hoàn thiện thể chế, pháp luật, đặc biệt là thể chế kinh tế thị trường của Việt Nam trên cơ sở tham khảo các chuẩn mực và thực tiễn pháp lý tốt nhất trên thế giới. Việc đạt được các mục tiêu trên sẽ góp phần thiết thực, hiệu quả vào việc cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu đầu tư công, khuyến khích các hoạt động đầu tư tư nhân và các hoạt động hợp tác công - tư.
Hơn thế nữa, việc xây dựng Đề án gia nhập Tổ chức này còn góp phần thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về hội nhập quốc tế, về cải cách tư pháp, cải cách pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển nội tại của các quan hệ dân sự, kinh tế có yếu tố nước ngoài của Việt Nam. Đồng thời, việc triển khai thực hiện Đề án cũng hoàn toàn phù hợp với xu hướng hợp tác về tư pháp quốc tế hiện nay trong khu vực và trên thế giới, khi mà các quan hệ đối tác luôn xoay xung quanh trục hợp tác kinh tế quốc tế, trên cơ sở các luật lệ quốc tế chung. Việc xây dựng Đề án này không nằm ngoài mục tiêu đem lại cho Việt Nam những lợi ích chung to lớn trong phát triển hợp tác quốc tế, lấy cơ sở hợp tác pháp luật và tư pháp làm nền tảng vững chắc và là cơ sở thúc đẩy cho sự phát triển hợp tác kinh tế quốc tế, đồng thời cũng đem lại những lợi ích quan trọng trong lĩnh vực tư pháp, đặc biệt là trong nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật một khi trở thành thành viên chính thức của UNIDROIT.
(hết phần I)