Hoạt động xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp từ năm 1980 đến nay

01/01/0001
Ngay từ ngày đầu thành lập nhà nước Việt Nam mới (năm 1945), Bộ Tư pháp là một trong số 12 Bộ thuộc cơ cấu Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Cho đến nay, Bộ Tư pháp đã có 60 năm hình thành và phát triển với những bước thăng trầm lịch sử. Mười lăm năm đầu được thành lập và hoạt động (1945 - 1960), đồng thời với việc đảm nhiệm những chức năng rất quan trọng của cơ quan hành pháp gắn chặt với các hoạt động tố tụng và hoạt động của toà án, Bộ Tư pháp đã có những đóng góp quan trọng trong việc đặt nền móng, xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ nhân dân của nhà nước Việt Nam mới thay thế cho hệ thống pháp luật thuộc địa, nửa phong kiến trước đây. Chỉ đến khi được tái lập từ năm 1981 đến nay, Bộ Tư pháp mới thật sự và từng bước được khẳng định là “Bộ xây dựng pháp luật” của Chính phủ.

Hoạt động xây dựng pháp luật là một trong những chức năng cơ bản của Bộ Tư pháp đã được ghi nhận ngay tại văn bản pháp lý đầu tiên đánh dấu sự tái lập Bộ Tư pháp đó là Nghị định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp (Nghị định số 143).

Có thể nói, bằng các quy định cụ thể về chức năng nhiệm vụ cũng như cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, Nghị định số 143 là một cột mốc lịch sử, tạo lập cơ sở pháp lý quan trọng cho những hoạt động xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp.

Tất cả các văn bản pháp luật quy định về địa vị pháp lý của Bộ Tư pháp từ trước đến nay, trừ văn bản đầu tiên (Nghị định số 37 ngày 01/12/1945) đều quy định Bộ Tư pháp có chức năng giúp Chính phủ quản lý công tác xây dựng pháp luật. Theo quy định tại Nghị định số 01/CP ngày 11/2/1960, Bộ Tư pháp “nghiên cứu và dự thảo các bộ luật và các đạo luật tổng áp về dân sự, hình sự và thủ tục tố tụng”; theo quy định tại Nghị định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 (sau đây gọi là Nghị định số 143) Bộ Tư pháp “giúp Hội đồng Bộ trưởng quản lý công tác dự thảo pháp luật”, theo quy định tại Nghị định số 38/CP ngày 4/6/1993 (sau đây gọi tắt là Nghị định số 38), Bộ Tư pháp “quản lý nhà nước về công tác xây dựng và tham gia xây dựng pháp luật”, đến Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 (sau đây gọi là Nghị định số 62) lại quy định Bộ Tư pháp “quản lý nhà nước về công tác dựng pháp luật”. Như vậy, có thể thấy, so với hai văn bản ban hành trước, quy định về chức năng quản lý công tác xây dựng pháp luật tại Nghị định số 62 gọn hơn, nhưng đã hàm chứa nội dung mới, phong phú hơn, thể hiện ở nội dung nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp về công tác này được quy định tại Điều 2 của Nghị định số 62.

Theo Nghị định số 143, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ tổng hợp và trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định kế hoạch xây dựng các dự án pháp luật và hướng dẫn việc thực hiện kế hoạch đó; xây dựng hoặc tham gia với các ngành xây dựng các dự án pháp luật trình Hội đồng Bộ trưởng; hướng dẫn công tác hệ thống hoá pháp luật và từng bước tiến hành pháp điển hoá; thẩm tra và đề nghị sửa đổi hoặc bãi bỏ các văn bản không phù hợp với pháp luật do các Bộ, các Uỷ ban nhà nước, các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng; Uỷ ban nhân dân địa phương ban hành; trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy chế về giám định tư pháp, chấp hành án, công chứng, lý lịch tư pháp và quy chế luật sư; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy chế đó.

Đến Nghị định số 38, Bộ Tư pháp có thêm nhiệm vụ mới trong hoạt động xây dựng pháp luật là xem xét và có ý kiến về mặt pháp lý của các dự án luật, pháp lệnh, văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh do các bộ, cơ quan ngang bộ cơ quan thuộc Chính phủ chủ trì soạn thảo trước khi các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trình Chính phủ.

Từ sau khi có Nghị định số 38, Bộ Tư pháp được giao thêm nhiều nhiệm vụ mới trong nhiều lĩnh vực, trong đó, có nhiệm vụ thẩm định các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo điều ước quốc tế. Cụ thể, Bộ Tư pháp có trách nhiệm thẩm định các dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết để Chính phủ xem xét trước khi quyết định trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (khoản 10 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002); thẩm định dự thảo nghị quyết, nghị định trước khi trình Chính phủ (khoản 17 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002); thẩm định dự thảo quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ (khoản 18 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002); thẩm định điều ước quốc tế trong trường hợp điều ước quốc tế có điều khoản trái hoặc chưa được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành (khoản 3 Điều 5 Pháp lệnh số 07/1998/PL-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 10 về ký kết, tham gia và thực hiện điều ước quốc tế) Bộ Tư pháp tiến hành thẩm định trong phạm vi sự cần thiết ban hành văn bản; sự phù hợp của văn bản với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản với hệ thống pháp luật; tính khả thi của văn bản; việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn thảo và ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản. So với nhiệm vụ xem xét và có ý kiến về mặt pháp lý đối với văn bản quy định tại Nghị định số 38, thẩm định không những là một nhiệm vụ phức tạp và khó khăn hơn nhiều mà còn là minh chứng khẳng định vai trò ngày càng cao của Bộ Tư pháp trước Chính phủ và Quốc hội trong công tác xây dựng pháp luật.

Tại Điều 2 Nghị định số 62 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, bên cạnh việc khẳng định lại những nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực pháp luật đã được giao trong Nghị định số 38 trước đây, như tổng hợp chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; cùng Văn phòng Chính phủ dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh dài hạn và hàng năm để Chính phủ trình Quốc hội quyết định; trình Chính phủ các dự án luật, pháp lệnh về dân sự, các dự án luật, pháp lệnh khác theo sự phân công của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh đó; xem xét và có ý kiến về mặt pháp lý của các dự án luật, pháp lệnh, văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh đó các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chủ trì soạn thảo trước khi các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trình Chính phủ; phối hợp với Văn phòng Chính phủ trong việc tổ chức chỉ đạo công tác hệ thống hoá văn bản pháp luật; hệ thống hoá văn bản pháp luật trong phạm vi chức năng của Bộ; kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ các văn bản pháp luật không phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, còn quy định thêm nhiệm vụ mới là thẩm định các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo điều ước quốc tế theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Nghị định số 62 còn quy định một chức năng mới của Bộ Tư pháp là quản lý nhà nước về công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật với những nhiệm vụ, quyền hạn sau: thống nhất quản lý công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; hướng dẫn, kiểm tra công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; thực hiện kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật do các bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành về những nội dung liên quan đến các lĩnh vực quản lý nhà nước do Bộ phụ trách; giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định của pháp luật; kiến nghị xử lý, xử lý theo thẩm quyền hoặc xử lý theo uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ các văn bản trái pháp luật.

Như vậy, tuy đến Nghị định số 62, những nhiệm vụ về xây dựng pháp luật của Bộ mới được chính thức xác định tại một văn bản về tổ chức bộ máy của Bộ, nhưng trong thực tiễn xây dựng pháp luật, nhiệm vụ này đã được giao trong quá trình nhiều năm, khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của Bộ Tư pháp đối với hoạt động xây dựng pháp luật.

Để thực hiện chức năng xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp đã tổ chức các đơn vị xây dựng pháp luật. Các đơn vị này cũng có sự thay đổi qua từng thời kỳ. Theo Nghị định số 143, Bộ Tư pháp có các vụ xây dựng pháp luật (trên thực tế, Bộ đã thành lập hai Vụ: Vụ pháp luật chung và Vụ pháp luật kinh tế; bên cạnh đó, Bộ còn thành lập Ban pháp điển để thực hiện chức năng là đầu mối tổ chức việc soạn thảo các Bộ luật, luật lớn, quan trọng như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình...); đến Nghị định số 38, trong cơ cấu của Bộ có hai Vụ xây dựng pháp luật là Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế và Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính. Căn cứ quy định tại Nghị định số 62, Vụ Pháp luật quốc tế được thành lập trên cơ sở tách nhiệm vụ xây dựng pháp luật quốc tế từ Vụ Hợp tác quốc tế trước đây. Đặc biệt, Nghị định số 62 đã quy định, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là một đầu mối trong số 22 đơn vị thuộc Bộ Tư pháp. Ngày 5/8/2003, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được thành lập theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Cục có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện thống nhất quản lý về kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật và tổ chức kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Bộ Tư pháp.

Trong điều kiện Đảng và nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế và dân chủ, thực hiện cải cách toàn diện nền hành chính quốc gia, chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp ngày càng nặng nề hơn, quan trọng hơn với nhiều nhiệm vụ mới và sự gia tăng không ngừng qua từng năm, từng giai đoạn về số lượng, chất lượng văn bản quy phạm pháp luật do Bộ xây dựng, tham gia xây dựng hoặc ban hành.

Với những nỗ lực triển khai hoạt động xây dựng pháp luật, từ năm 1981 đến năm 2004, Bộ Tư pháp nói riêng, Ngành Tư pháp nói chung đạt được những thành tựu nổi bật sau:

I. Giai đoạn từ năm 1981 – 1993.

Giai đoạn từ năm 1981 - 1993, hoạt động xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp dựa trên cơ sở quy định của Nghị định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp.

Trong những năm 1981 - 1985, thành tựu nổi bật nhất của Bộ Tư pháp là chủ trì soạn thảo Bộ luật Hình sự được Quốc hội chính thức thông qua trong kỳ họp tháng 6/1985. Trước khi có Bộ luật Hình sự, lĩnh vực hình sự chỉ được điều chỉnh bằng những văn bản đơn hành, lẻ tẻ. Bộ luật Hình sự ra đời vào thời điểm này là công cụ sắc bén góp phần đấu tranh có hiệu quả chống tội phạm để giữ nghiêm pháp luật và kỷ luật của Nhà nước. Việc ban hành Bộ luật Hình sự đánh dấu bước tiến bộ mới quan trọng trong việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, vì đây là Bộ luật đầu tiên của Nhà nước ta. Ngoài ra, công tác soạn thảo Bộ luật đã để lại cho chúng ta một số kinh nghiệm tốt về phương pháp xây dựng pháp luật, nhất là những bộ luật quan trọng.

Tiếp theo Bộ luật Hình sự, năm 1985, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự. Đây là một Bộ luật lớn, đánh dấu thành công thứ hai trong lịch sử lập pháp của nước ta, trong đó, có đóng góp quan trọng của Bộ Tư pháp với vai trò là thường trực Ban dự thảo. Bộ luật này quy định việc phát hiện, xác minh hành vi phạm tội được chính xác, bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bảo đảm thi hành tốt Bộ luật Hình sự.

Với cố gắng từng bước đổi mới, đưa công tác xây dựng pháp luật dần dần đi vào nền nếp, có kế hoạch, nâng cao được chất lượng của các văn bản dự thảo, năm 1988, Bộ Tư pháp đã ban hành văn bản hướng dẫn các Bộ và Uỷ ban nhân dân địa phương thực hiện công tác xây dựng các văn bản pháp quy trên quan điểm đổi mới, góp phần đáp ứng yêu cầu thực hiện một khối lượng công việc xây dựng các văn bản pháp quy lớn hơn trước, với trách nhiệm nặng nề hơn là Bộ Tư pháp chủ trì dự thảo cùng chịu trách nhiệm trước Hội đồng Bộ trưởng về tiến độ và chất lượng các dự án luật, pháp lệnh trình ra Hội đồng Bộ trưởng. Tại Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ VI, Bộ đã tổng kết chuyên đề công tác thể chế hoá và quy định chế độ thảo luận tập thể, lấy ý kiến tập thể trong nội bộ các đơn vì thuộc Bộ đối với tất cả các dự án luật, pháp lệnh và các văn bản quan trọng của Hội đồng Bộ trưởng; sử dụng chuyên gia giỏi tham gia xây dựng các dự án quan trọng. Phần lớn các dự án luật và pháp lệnh trong chương trình năm 1987, 1988, ở mức độ khác nhau đã có ý kiến của lãnh đạo Bộ. Với cách làm này, Bộ đã nắm chắc hơn tiến độ, nội dung, chất lượng của các văn bản dự thảo, có được nhiều ý kiến sát, đúng để các cơ quan có thẩm quyền xem xét; quyết định. Năm 1989, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có bước tiến bộ rõ cả về tiến độ và chất lượng văn bản pháp luật. Bộ Tư pháp đã trực tiếp chủ trì soạn thảo 5/38 văn bản, trong đó có những văn bản có tầm quan trọng lớn như Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời, thực hiện chức năng giúp Hội đồng Bộ trưởng quản lý thống nhất việc ban hành văn bản pháp quy, Bộ Tư pháp đã trực tiếp nghiên cứu và tham gia ý kiến đối với tất cả các văn bản pháp quy do các cơ quan khác soạn thảo trước khi trình cơ quan có thẩm quyền. Thông qua hoạt động này, Bộ Tư pháp đã có những tiến bộ mới trong thực hiện chức năng xây dựng pháp luật của mình. Một trong số những nguyên nhân giúp đạt được kết quả trên là lãnh đạo Bộ đã đầu tư nhiều thời gian, công sức vào chỉ đạo thực hiện công tác xây dựng pháp luật.

Các vụ pháp luật, các đơn vị khác thuộc Bộ đã có nhiều cố gắng, năng động và đề cao được trách nhiệm trong việc xây dựng văn bản.

Như vậy, trong giai đoạn đầu từ khi tái lập, mặc dù số lượng văn bản xây dựng, tham gia xây dựng không nhiều, nhưng hoạt động xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp đã ghi được những dấu ấn đậm nét thông qua việc chủ trì soạn thảo Bộ luật Hình sự, Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; tham gia soạn thảo Bộ luật Tố tụng hình sự.

II. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003.

Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003, hoạt động xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp được thực hiện dựa trên các quy định của Nghị định số 38/CP ngày 04/06/1993 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp. Đặc biệt, năm 1996, Quốc hội đã ban hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Năm 1997, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 101/CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng khẳng định vai trò, trách nhiệm cũng như tạo cơ sở cho Bộ Tư pháp đẩy mạnh hoạt động xây dựng pháp luật.

Năm 1994, công tác xây dựng văn bản pháp quy ở cả trung ương và địa phương có nhiều chuyển biến tích cực, đã cụ thể hoá kịp thời một số luật, pháp lệnh, nghị định của Chính phủ. Bộ Tư pháp đã trực tiếp soạn thảo các văn bản như Nghị định về án phí, lệ phí toà án; Nghị định về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế, các nghị định về thi hành Luật Phá sản, thi hành Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, về pháp chế ngành, về hành nghề tư vấn pháp luật; Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tổng kết 8 năm thi hành Luật Hôn nhân và gia đình; các Hiệp định tương trợ tư pháp với Ba Lan, Mông Cổ, Canađa, Ucraina, thoả thuận giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Canađa về việc công dân Việt Nam trở về và đề xuất trình Chủ tịch nước quyết định việc gia nhập Công ước Newyork năm 1958... Ngoài ra, Bộ đã tham gia soạn thảo, đóng góp ý kiến xây dựng một số lượng lớn các văn bản pháp quy do các ngành khác chủ trì như: các Nghị định hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Bảo vệ môi trường, các Luật thuế... Về công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản pháp luật, trước đây, là công tác khó thực hiện, nhưng năm 1994 đã có những bước chuyển biến tích cực, Bộ Tư pháp đã hướng dẫn những lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm, tạo được kết quả bước đầu. Theo sự chỉ đạo của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, buôn lậu nhằm thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Bộ đã phối hợp với các Bộ, ngành tiến hành rà soát những văn bản pháp luật có thiếu sót, dễ bị lợi dụng để tham nhũng và buôn lậu.

Phát huy những thành tựu đạt được trong những năm trước, năm 1995 đã ghi thêm vào lịch sử lập pháp nước ta mốc son quan trọng. Bộ luật Dân sự đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 là một sự kiện lịch sử đánh dấu bước phát triển hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ đổi mới, có ý nghĩa không chỉ đối với hệ thống pháp luật mà còn đối với cả đời sống chính trị, kinh tế xã hội. Đây là kết quả lao động sáng tạo trong nhiều năm liên tục của tập thể nhiều thế hệ các chuyên gia pháp lý, được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Đảng, Nhà nước, sự tham gia nhiệt tình và hiệu quả của toàn dân, của các cấp, các ngành, trong đó, có công sức đóng góp trực tiếp và quan trọng của Bộ Tư pháp, với tư cách là đơn vị chủ trì soạn thảo. Cùng với Bộ luật Dân sự, Bộ Tư pháp còn được giao chủ trì soạn thảo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.

Pháp lệnh này quy định các nguyên tắc về phạt hành chính và một số vấn đề cần thiết về hình thức, thủ tục và trình tự giải quyết những vụ vi phạm.

Việc ban hành Pháp lệnh là cơ sở để Hội đồng Bộ trưởng và các cơ quan có thẩm quyền khác rà soát, sửa đổi, bổ sung những văn bản không còn phù hợp, ban hành các quy định còn thiếu, làm cho pháp luật về xử phạt hành chính từng bước được hoàn thiện và được thi hành thống nhất trong cả nước.

Sang năm 1996, Ngành Tư pháp nói chung đã đạt được những kết quả quan trọng, tiếp tục khẳng định vị trí của công tác tư pháp trong sự nghiệp đổi mới và trên con đường tiếp tục đi lên của đất nước. Phát huy những thành tựu đạt được trong những năm trước về công tác xây dựng pháp luật, Bộ đã tập trung trí tuệ, thời gian để xây dựng và đã trình Quốc hội thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, một dự án luật quan trọng sau Bộ luật Dân sự. Việc ban hành Luật này là một sự kiện pháp lý quan trọng. Lần đầu tiên trong lịch sử xây dựng nhà nước và pháp luật kiểu mới, của dân, do dân, vì dân, chúng ta đã có một văn bản luật quy định thẩm quyền, thủ tục và trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật, công cụ quan trọng để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ mới, đáp ứng yêu cầu cơ bản của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Cũng trong năm 1996, tại Chỉ thị số 189/TTg, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ Tư pháp một nhiệm vụ mới là thẩm định các dự thảo văn bản pháp luật trước khi Chính phủ xem xét (nhiệm vụ này chính thức được quy định trong Nghị định số 62 thay thế Nghị định số 38). Kết quả, Bộ đã thẩm định 3 dự án Luật và 11 dự thảo nghị định của Chính phủ. Tuy nhiên, việc thẩm định các văn bản pháp luật của các bộ, ngành trước khi Chính phủ xem xét là một nhiệm vụ khá nặng nề. Bộ còn tham gia góp ý vào 103 văn bản pháp luật của các Bộ, ngành đang trong quá trình soạn thảo, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng pháp luật. Từ đó, tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp với các Bộ, ngành trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật..

Thực hiện Chỉ thị số 51/TTg ngày 24/11/1997 của Thủ tướng Chính phủ, năm 1997, Bộ Tư pháp đã soạn thảo trình Chính phủ ban hành Quyết định số 355-TTg về việc thành lập Ban chỉ đạo của Chính phủ về tổng rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật từ năm 1976 - 1996, cùng với kế hoạch về triển khai thực hiện một đợt tổng rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật. Là cơ quan thường trực Ban chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức hai Hội nghị tập huấn nghiệp vụ cho hơn 500 đại biểu là thành viên Ban chỉ đạo của 61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 49 bộ, ngành. Bộ đã cử cán bộ trực tiếp đến các địa phương, các bộ, ngành hướng dẫn nghiệp vụ rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật và giúp Ban chỉ đạo đôn đốc việc thực hiện Quyết định số 355-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Do có hoạt động này, công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật ở Trung ương và địa phương nhìn chung đã có những chuyển biến tích cực. Những văn bản quy phạm pháp luật có nội dung lạc hậu, chồng chéo, mâu thuẫn, vi phạm về thẩm quyền đã được kịp thời phát hiện, đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.

Bước sang năm 1998, mặc dù được giao thêm nhiều nhiệm vụ mới ngoài những nhiệm vụ quy định trong Nghị định số 38/CP, Bộ Tư pháp vẫn triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực xây dựng pháp luật. Bộ được Chính phủ giao chủ trì soạn thảo trên 20 văn bản quy phạm pháp luật, đã trình và được cơ quan có thẩm quyền ban hành Luật Quốc tịch Việt Nam, Pháp lệnh tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991. Bộ đã chủ trì phối hợp với các ngành hữu quan khẩn trương hoàn chỉnh Dự án Bộ luật Hình sự (sửa đổi), Dự án Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi), Bộ luật Thi hành án, Dự án Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi), Pháp lệnh Luật sư (sửa đổi), Pháp lệnh về tình trạng khẩn cấp. Đồng thời, trong năm 1998, Bộ cử lãnh đạo Bộ, thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ và chuyên viên tham gia phối hợp với các bộ, ngành khác soạn thảo nhiều dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Năm 1998 là năm Bộ Tư pháp tập trung trí tuệ và lực lượng cán bộ nghiên cứu, soạn thảo, trình và được Chính phủ ban hành hoặc phê duyệt nhiều đề án, báo cáo và nhiều văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho nhiệm vụ quản lý nhà nước của Ngành Tư pháp.

Năm 1999, Bộ Tư pháp được giao chủ trì soạn thảo 23 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (5 luật, 4 pháp lệnh, 12 nghị định, 2 đề án). Hầu hết các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật nói trên đều đã được Bộ soạn thảo xong (15/19, đạt 78,7%), trong đó, có 12/19 văn bản quy phạm pháp luật đã được trình, được thông qua hoặc được ban hành (63%).

Năm 2000 là năm tập trung triển khai thi hành Bộ luật Hình sự năm 1999. Là cơ quan được Chính phủ giao chủ trì công tác tuyên truyền, tổ chức tập huấn Bộ luật, Bộ Tư pháp đã thành lập Tổ công tác rà soát văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự của Bộ Tư pháp để rà soát văn bản làm cơ sở cho việc kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự năm 1999. Đến hết năm 2000, Bộ đã tiến hành rà soát, lập danh mục 135 văn bản (trong đó có 14 văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự năm 1985 do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành và các văn bản do Bộ Tư pháp tham gia soạn thảo).

Sang năm 2001, nhiệm vụ được giao và kết quả đạt được trong lĩnh vực xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp ngày càng tăng, cụ thể: được giao chủ trì, trực tiếp soạn thảo 29 văn bản quy phạm pháp luật (5 dự án pháp lệnh, 2 nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, 17 nghị định, 2 quyết định và 3 chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; thẩm định 81 văn bản (3 dự án luật, 4 pháp lệnh, 72 nghị định, 2 quyết định - bình quân, một tháng thẩm định gần 7 văn bản); góp ý hàng trăm văn bản khác.

Năm 2002, Bộ đã hoàn thành nhiệm vụ chủ trì xây dựng 39 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó, có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; thẩm định 102 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (4 luật, 4 pháp lệnh, 93 nghị định, 1 bản ghi nhớ), cấp ý kiến pháp lý cho 23 thoả thuận, dự án vay vốn nước ngoài nhằm đảm bảo độ an toàn pháp lý cho các thoả thuận, dự án trong nước có vay vốn đối tác nước ngoài.

Như vậy, so với giai đoạn trước, trong giai đoạn thứ hai này, hoạt động xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp đã phát triển thêm về lượng và chất ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thực hiện tổng rà soát trong vai trò của cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo của Chính phủ. Bên cạnh đó, Bộ còn được giao thêm nhiệm vụ mới là thẩm định văn bản.

III. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay.

Giai đoạn từ năm 2003 đến nay, hoạt động xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp được đẩy mạnh một bước trên cơ sở Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 06/06/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp.

Năm 2003 là năm đánh dấu sự chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp, với tiến độ nhanh hơn và chất lượng cao hơn so với những năm trước. Bộ đã trình 19/29 văn bản, đề án được giao chủ trì, soạn thảo (đạt 65,5%), trong đó có 15 văn bản được thông qua hoặc được ban hành, đây là kết quả mà những năm trước chưa đạt được.

Sang năm 2004, do chủ động và có nhiều cải tiến trong phân công, tổ chức thực hiện công việc nên Bộ Tư pháp đã hoàn thành một khối lượng lớn công việc trong lĩnh vực xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Chuyển biến khá rõ nét trong công tác này là các văn bản do Bộ chủ trì chuẩn bị ngày càng được nâng lên cả về chất lượng và đảm bảo tốt hơn tiến độ hoàn thành.

Kết thúc năm 2004, Bộ đã hoàn thành việc chủ trì soạn thảo, trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 15 văn bản (đạt tỷ lệ trên 75%), như Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Pháp lệnh Thi hành án dân sự... Bộ cũng đã thẩm định 217 dự thảo, bình quân mỗi tháng thẩm định 18 văn bản; góp ý 430 văn bản, bình quân mỗi tháng góp ý 36 văn bản. Trong phạm vi chức năng, Bộ đã chủ động, tích cực tham gia về mặt pháp luật quốc tế vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến việc chuẩn bị cho việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Trên cơ sở kết quả rà soát 325 văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan trung ương ban hành, Bộ đã xây dựng các Bản chào pháp luật phục vụ cho các vòng đàm phán gia nhập WTO được các đối tác đánh giá cao.

Về công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, cho đến nay, sau hơn một năm triển khai, Bộ đã triển khai đồng bộ nhiều hoạt động làm tiền đề, nền tảng như hoàn thiện thể chế, tổ chức biên chế, tập huấn, cơ chế tài chính và các điều kiện bảo đảm khác cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản. Là hoạt động độc lập với hoạt động xây dựng pháp luật nhưng hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản có tác động tích cực, góp phần bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; nâng cao vai trò, vị thế của Bộ Tư pháp trong công tác xây dựng, ban hành văn bản. Đặc biệt, tuy là công tác hậu kiểm nhưng hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đã tác động rất tích cực vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, ngành và địa phương.

Trong 6 tháng đầu năm 2005, với tinh thần đẩy mạnh hoạt động xây dựng pháp luật mà trung tâm là phục vụ hội nhập quốc tế, đàm phán gia nhập WTO, Bộ đã chủ trì soạn thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ VII. Đồng thời, Bộ đã trình Chính phủ Đề án điều chỉnh Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội phục vụ đàm phán gia nhập WTO; 4 dự thảo nghị định: Nghị định quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Giám định tư pháp, Nghị định số 50/2005/NĐ-CP thay thế Nghị định số 30/NĐ-CP về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên; Nghị định sửa đổi Nghị định số 68/2002/NĐ-CP; Nghị định sửa đổi Nghị định số l01/CP về hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; trình Thủ tướng Chính phủ Chỉ thị về đẩy nhanh tiến độ soạn thảo và nâng cao chất lượng các dự án luật, pháp lệnh và quyết định về việc cung cấp các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cho WTO.

Nhân kỷ niệm 60 năm Ngành Tư pháp, việc nhìn lại những thành tựu, sự đóng góp thiết thực của Bộ Tư pháp trong công tác xây dựng pháp luật, góp phần hình thành, hoàn thiện hệ thống pháp luật của thời kỳ mới, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đây cũng là dịp để chúng ta thấy rõ những mặt còn hạn chế, bất cập trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, có những biện pháp hiệu quả, thực tế nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác này trong những năm sắp tới.

TS. Lê Hồng Sơn - Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật

Theo Tạp chí Dân chủ pháp luật - Số chuyên đề 60 năm ngành Tư pháp