60 năm ngành Tư pháp thực hiện tư tưởng HCM, chính sách của Đảng, NN trong lĩnh vực kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật kinh tế, thương mại VN trong giai đoạn hiện nay

01/01/0001
1. Phác thảo đôi nét về hoạt động của Ngành Tư pháp thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực kinh tế quốc tế. 1.1. Giai đoạn trước năm 1986. Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đã chấm dứt ách thống trị thực dân của Pháp ở Việt Nam. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được... Bởi thế cho nên,... Chúng tôi tin rằng, các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”(2). Tiếp theo Tuyên ngôn độc lập, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ban hành một loạt văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có nhiều quy định liên quan đến lĩnh vực kinh tế quốc tế. Theo các tài liệu lịch sử, thường các văn bản quy phạm pháp luật này đều có sự đóng góp tích cực của Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hoè thường có ký “Phó thự” hoặc “Tiếp ký” vào các văn bản nói trên (3).

Ngày 6/3/1946, dưới sự chỉ đạo trực tiếp tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với những bước đi thích hợp trong tình hình cụ thể của nước ta, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ký Hiệp định sơ bộ với Chính phủ Pháp trong đó khẳng định: “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình, nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình và là một phần tử trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp”. Đây là tư tưởng hội nhập kinh tế quốc tế khu vực đã được GATT 1947 ghi nhận(4) mà phải mất nhiều thập niên sau chúng ta mới nhận thấy hết tầm quan trọng của vấn đề này trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời đã thể hiện rõ tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tư pháp cũng đã góp phần quan trọng trong việc chuẩn bị, thông qua bản Hiến pháp lịch sử này.

Tư tưởng hội nhập kinh tế quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng được thể hiện rõ trong Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946 gửi Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Trong bức thư này có khẳng định: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực. Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế. Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên Hợp Quốc” (5). Tư tưởng này của Hồ Chủ tịch đã được Bộ Tư pháp quán triệt qua quá trình thảo luận vấn đề quốc hữu hoá đoạn đường sắt Hải Phòng đi Lào Cai - Vân Nam và các hạng mục công trình khác.

Tháng 01/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh có gửi lời kêu gọi Chính phủ và nhân dân nước Pháp, trong đó nhấn mạnh: “Chúng tôi bao giờ cũng muốn kiến thiết lại đất nước chúng tôi với sự giúp đỡ của tư bản và các nhà chuyên môn Pháp để mưu lợi ích chung cho cả hai dân tộc” (6). Tháng 7/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời nhà báo nước ngoài về vấn đề quốc tế như sau: “Chúng tôi chủ trương làm cho tư bản Việt Nam phát triển. Mà chỉ có thống nhất, độc lập thì tư bản Việt Nam mới có thể phát triển. Đồng thời, chúng tôi hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản các nước thật thà cộng tác với chúng tôi. Một là để xây dựng lại Việt Nam sau lúc bị chiến tranh tàn phá, hai là để điều hoà kinh tế thế giới và giữ gìn hoà bình” (7).

Sau ngày hoà bình lập lại ở Việt Nam năm 1954, tháng 6/1955 nhân dịp chuyến thăm Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sẵn sàng đặt mọi quan hệ hợp tác với bất cứ một nước nào trên nguyên tắc tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi và chung sống hoà bình. Chúng tôi tin chắc rằng sự hợp tác đó sẽ có lợi cho cả hai bên và có lợi chung cho công cuộc hoà bình thế giới” (8). Với quan điểm như vậy, vào tháng 4/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời phỏng vấn Báo Tin nhanh hàng ngày của Anh quốc: “Trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi, chúng tôi sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao và thương mại với tất cả các nước” (9).

1.2. Giai đoạn từ 1976 đến nay.

Do hoàn cảnh lịch sử nên Việt Nam không thể thực hiện một cách đầy đủ tư tưởng mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt thời gian từ sau khi giành độc lập năm 1945 đến khi thống nhất Việt Nam về mặt Nhà nước năm 1976. Ngay sau khi thành lập nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1976, Việt Nam đã tìm mọi cách để thực hiện một cách đầy đủ tư tưởng mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở rộng quan hệ thương mại với các nước, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, ký kết nhiều Hiệp định song phương và đa phương liên quan hội nhập kinh tế quốc tế. Việc ký kết các điều ước quốc tế này có sự tham gia tích cực của Ngành Tư pháp.

Tháng 8 và tháng 9/1976, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kế thừa quy chế thành viên của chính quyền Sài Gòn tại World Bank (9/8/1976), International Monetary Fund (20/9/1976). Tháng 9/1977 Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc. Tháng 6/1978 Việt Nam tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế các nước XHCN (SEV), tham gia vào nhiều điều ước quốc tế của SEV. Tháng 11/1979, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã quyết định thành lập Trường Đại học Pháp lý Việt Nam (tiền thân của Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh). Trường có chức năng và nhiệm vụ của “Trung tâm đào tạo cán bộ pháp lý, Trung tâm nghiên cứu khoa học pháp lý và Trung tâm truyền bá pháp lý”. Để thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực kinh tế quốc tế, đào tạo cán bộ pháp lý quốc tế, nghiên cứu khoa học pháp lý quốc tế và truyền bá pháp lý quốc tế, Hội đồng Bộ trưởng đã quyết định thành lập trong Trường Đại học Pháp lý Việt Nam Khoa Pháp luật quốc tế. Từ đầu những năm 1980, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các nước được tiến triển mạnh và cũng do vậy nhiều vấn đề pháp luật quốc tế đã nảy sinh cần được nghiên cứu, giải quyết thoả đáng. Tháng 11/1981, Bộ Tư pháp được lập lại. Để nghiên cứu, xử lý các vấn đề pháp luật quốc tế, Phòng Pháp luật quốc tế được thành lập đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lãnh đạo Bộ, do Vụ trưởng Vụ Pháp luật kinh tế kiêm nhiệm. Theo yêu cầu của SEV và Hội đồng Bộ trưởng, Ngành Tư pháp đã cử cán bộ tham gia tích cực vào hoạt động của SEV và Bộ trưởng đã cử một cán bộ sang Liên Xô làm đại diện pháp lý thường trực tại Ban Thư ký của SEV. Trước tình hình phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác lao động giữa Việt Nam và các nước, Bộ Tư pháp một mặt cử cán bộ hỗ trợ Bộ Lao động và các bộ, ngành liên quan đàm phán các hiệp định về hợp tác lao động với các nước, phối hợp chuẩn bị cán bộ, lao động Việt Nam ra nước ngoài, mặt khác, Bộ chủ trì đàm phán các hiệp định tương trợ tư pháp và các thoả thuận pháp lý với các nước để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân Việt Nam ở nước ngoài. Trong thời gian khoảng mười năm sau khi được thành lập, Bộ Tư pháp đã chủ trì đàm phán, ký kết hơn mười hiệp định tương trợ tư pháp và thoả thuận quốc tế về các vấn đề pháp luật, góp phần đáng kể vào việc thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nhìn chung những nỗ lực đó vẫn chưa mang lại kết quả mong muốn, thậm chí không cản nổi chiều hướng đi vào khủng hoảng kinh tế do tác động của việc duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp, sự mở rộng và kéo dài cuộc chiến tranh lạnh ở Đông Dương. Tình hình mở rộng quan hệ kinh tế với các nước, đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được khởi sắc từ Nghị quyết số 19 ngày 17/7/1984 của Bộ Chính trị về quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các nước. Nghị quyết số 19 này ghi rõ: “ưu tiên dành sự hợp tác cho các nước XHCN. Trong những lĩnh vực và quy mô ta định hợp tác, khả năng và yêu cầu của bạn đến đâu, ta hợp tác đến đó. Phần còn lại hợp tác với các nước dân tộc chủ nghĩa và các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Để khuyến khích hợp tác với các nước không phải xã hội chủ nghĩa, cần bổ sung và hoàn thiện Điều lệ đầu tư đã ban hành để có tính hấp dẫn hơn, nghiên cứu xây dựng một số quy định có liên quan, tiến tới xây dựng Bộ luật đầu tư hoàn chỉnh”. Tháng 02/1985, Chính phủ thành lập Ban nghiên cứu kinh tế đối ngoại và xây dựng Bộ luật đầu tư hoàn chỉnh của Việt Nam. Bộ Tư pháp đã cử cán bộ của mình làm thành viên của Ban nói trên. Tháng 12/1986, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định đường lối đổi mới toàn diện, mở ra thời kỳ mới của hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội quyết định xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nghị quyết Đại hội VI ghi rõ: “Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế;… tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi”… “ công bố chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố Luật đầu tư, cần có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh” (10). Thực hiện các văn kiện của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực kinh tế quốc tế, với kết quả hoạt động của Ban nghiên cứu kinh tế đối ngoại và xây dựng Bộ luật đầu tư hoàn chỉnh của Việt Nam, sự nỗ lực to lớn của Bộ Tư pháp, Nhà nước ta bước đầu đã xây dựng được một hệ thống pháp luật kinh tế đối ngoại của Việt Nam thích hợp với tình hình cụ thể của đất nước và khu vực, đặc biệt là Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam năm 1988, Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990.

Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 6/1991 đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 (1991-2000), đề ra đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá theo tinh thần “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, nhằm tham gia tích cực vào đời sống kinh tế quốc tế. Đại hội cũng nhấn mạnh, “gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, giải quyết mối quan hệ giữa tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản xuất nội địa”… “cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB,… mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực ở Châu á - Thái Bình Dương” (11). Từ tháng 10/1993, Việt Nam thiết lập lại được quan hệ bình thường với IMF, WB, ADB; Hội nghị các nhà tài trợ tại Paris cam kết giúp cho Việt Nam vốn ODA khoảng 1,8 tỷ USD trong năm 1994, giải quyết nợ Chính phủ qua Câu lạc bộ Paris và nợ tư nhân qua Câu lạc bộ Luân Đôn; thông qua các chương trình vay ưu đãi của IMF (1993: 245 triệu; 1994: 535 triệu USD). Bộ Tư pháp đã cử các cán bộ pháp luật quốc tế tham gia tích cực các hoạt động này, góp phần xử lý tốt vấn đề nợ tư nhân của Việt Nam qua Câu lạc bộ Luân Đôn, mang lại lợi ích kinh tế quan trọng cho đất nước.

Tháng 10/1994, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập ASEAN; tháng 12/1994 gửi đơn xin gia nhập WTO. Tháng 1/1995, WTO chính thức nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam để tiến hành đàm phán cụ thể. Tháng 7/1995, Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN, chấp nhận các nguyên tắc, quy định của Tổ chức kinh tế khu vực này. Các vấn đề pháp lý quốc tế của Việt Nam liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế với các tổ chức quốc tế này, vấn đề rà soát văn bản thuộc hệ thống pháp luật Việt Nam và xây dựng Chương trình hành động lập pháp liên quan đến nghĩa vụ thành viên, giải quyết tranh chấp trong phạm vi ASEAN, WTO, các vấn đề thuộc thương mại dịch vụ pháp lý đã được Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Tư pháp đảm nhiệm, xử lý. Bộ Tư pháp đã lập Tổ công tác chỉ định một số cán bộ pháp luật quốc tế tham gia Đoàn đàm phán thương mại của Chính phủ với WTO, các cuộc đàm phán khác nhau của Việt Nam với ASEAN và các nước.

Tháng 6/1996, Đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những hàng trong nước sản xuất có hiệu quả, tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường quốc tế; mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương, đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi (12). Tháng 6/1996, Việt Nam tham gia thành lập ASEM. Tháng 11/1998, Việt Nam trở thành thành viên APEC. Bộ Tư pháp được Thủ tướng Chính phủ giao đảm nhiệm việc xử lý các vấn đề pháp luật, giải quyết trang chấp trong khuôn khổ APEC.

Tháng 7/2000, Việt Nam ký Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ. Đây cũng là sự biểu hiện sinh động của việc thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế quốc tế (13). Trong quá trình đàm phán, ký kết Hiệp định này, Bộ Tư pháp đã cử một số cán bộ tham gia đàm phán, có những đóng góp tích cực và có hiệu quả. Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 4/2001) đã khẳng định “phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”(14). Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế (Nghị quyết số 07-NQ/TW). Đây là văn kiện quan trọng liên quan trực tiếp đến chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, là sự kế thừa có phát triển trên tầm cao mới tư tưởng Hồ Chí Minh về hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam và quan hệ quốc tế. Tháng 02/2002, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với các cơ quan ở trung ương và địa phương tiến hành rà soát các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam theo các cam kết quốc tế của Việt Nam với ASEAN, APEC, các tổ chức quốc tế khu vực, với các quy định của WTO, với Hoa Kỳ và các nước liên quan. Thực hiện nhiệm vụ này, Bộ Tư pháp đã thành lập Tổ công tác liên vụ, đã huy động được hàng trăm chuyên gia pháp luật và chuyên gia các chuyên ngành khác của các Bộ, ngành, địa phương trong cả nước và chuyên gia quốc tế tham gia. Ngày 03/02/2004, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 34-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Nghị quyết có nhấn mạnh nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phương, song phương nước ta đã ký kết và chuẩn bị tốt các điều kiện để sớm gia nhập WTO; tạo môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoáng, có tính cạnh tranh cao so với khu vực; tăng nhanh xuất khẩu và thu hút mạnh đầu tư nước ngoài. Các chuyên gia pháp luật quốc tế của Bộ Tư pháp cũng đã tích cực cùng các bộ, ngành khác triển khai thực hiện Nghị quyết này.

Một sự kiện quan trong khác liên quan đến pháp luật, trong đó có sự đóng góp tích cực của lãnh đạo và các chuyên gia pháp luật của Bộ Tư pháp, đó là việc vào ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW). Đây là văn kiện quan trọng liên quan trực tiếp đến quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của nhân dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Nghị quyết số 48-NQ/TW có một phần riêng về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế, là sự kế thừa có phát triển trên tầm cao mới tư tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực kinh tế quốc tế trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam và quan hệ quốc tế, tiếp tục cụ thể hoá các quan điểm, nguyên tắc của Nghị quyết số 07-NQ/TW nói trên của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế.

2. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực kinh tế quốc tế và việc hoàn thiện pháp luật kinh tế, thương mại của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

2.1. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực kinh tế quốc tế và việc hoàn thiện pháp luật kinh tế, thương mại của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cần chú ý đến các xuất phát điểm lý luận sau:

Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, là bộ phận trong tổng thể đổi mới - hội nhập - phát triển và tăng trưởng bền vững, là tiền đề quan trọng bảo đảm thành công của công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng XHCN, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao phúc lợi xã hội, thu hẹp dần khoảng cách với các nước trong khu vực.

Thứ hai, phải tích cực chủ động mọi mặt, phát huy nội lực tập trung giải quyết các cơ sở nền tảng nâng cao môi trường cạnh tranh chung của nền kinh tế với tính cách là một nhân tố quan trọng nhất đảm bảo đạt và duy trì sự phát triển bền vững.

Thứ ba, phải tạo điều kiện và thúc đẩy các ngành, các doanh nghiệp vươn lên, tăng cường khả năng cạnh tranh và đứng vững trên thị trường trong và ngoài nước. Về nguyên tắc, các ngành có năng lực cạnh tranh tốt hoặc không có khả năng cạnh tranh sẽ được “mở cửa” nhanh chóng. Việc bảo hộ các ngành khác phải có thời hạn, có điều kiện và giảm dần, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự vươn lên để tồn tại và phát triển.

Thứ tư, hội nhập và điều chỉnh cơ cấu kinh tế phải được tiến hành theo chương trình, kế hoạch trong khuôn khổ pháp luật phù hợp với các cam kết quốc tế, với các bước đi vững chắc không chậm trễ, không để dồn gánh nặng vào thời gian cuối của lộ trình.

Thứ năm, việc điều chỉnh cần thiết hệ thống pháp luật kinh tế, thương mại, các chính sách, cơ chế quản lý kinh tế của Việt Nam cần dựa trên nguyên tắc và yêu cầu của WTO phù hợp với truyền thống văn hoá pháp lý Việt Nam. Quá trình này thể hiện sự nhất quán với khuôn khổ của WTO và các cam kết quốc tế của Việt Nam, nhưng phải rút kinh nghiệm các nước đi trước, đặc biệt là những nước có hoàn cảnh, điều kiện tương tự Việt Nam.

Thứ sáu, phải khẩn trương triển khai các hoạt động cần thiết, phổ biến các thông tin, kiến thức pháp luật kinh tế, thương mại quốc tế, các quy tắc tác nghiệp cơ bản cần thiết cho các cơ quan, tổ chức trong nước và mọi công dân, tập trung đào tạo và đào tạo lại cấp tốc lực lượng cán bộ pháp lý để đảm nhận thành công công cuộc hội nhập, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Thứ bảy, phải đặt vấn đề hoàn thiện pháp luật kinh tế, thương mại Việt Nam phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế trong tổng thể các vấn đề thuộc chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ tám, phải coi trọng vấn đề ổn định chính trị - xã hội trong quá trình hội nhập và cải cách pháp luật, tư pháp và cải cách hành chính; phải chú ý đến các biện pháp hạn chế các tác động tiêu cực về mặt xã hội như là một nội dung đặc biệt quan trọng.

2.2. Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế, thương mại để Việt Nam hội nhập với WTO và nền kinh tế thế giới trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần xuất phát từ nhận thức sau:

Thứ nhất, phải coi việc đàm phán gia nhập WTO là một bước thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực kinh tế quốc tế, về hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế quốc tế, gắn liền và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, cơ cấu lại nền kinh tế vì sự phát triển bền vững của kinh tế nước nhà; phải căn cứ vào nhu cầu phát triển và khả năng, đặc điểm của nền kinh tế đất nước hiện tại theo hướng vươn lên đạt tới những mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá vào năm 2020.

Thứ hai, về bản chất của hội nhập với nền kinh tế thế giới và trở thành thành viên WTO thực chất là tham gia phân chia thị trường, giành lợi thế trong thương mại quốc tế. Cần coi đây là một ưu tiên và đặt mục tiêu phấn đấu hội nhập thành công trong thời gian ngắn để tạo động lực cho nền kinh tế phát triển trong giai đoạn tới, đồng thời hạn chế những khó khăn, phức tạp rất có thể phát sinh nếu quá trình này kéo dài.

Thứ ba, trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, thực hiện lộ trình tất yếu là phải đi đến các mốc thời gian nhất định của các cam kết quốc tế khác nhau, trong đó có các mốc thời gian cắt giảm thuế quan. Do vậy, cần xác định thuế xuất nhập khẩu không phải là nguồn thu chính của ngân sách quốc gia để có giải pháp hoàn thiện pháp luật về thuế thích hợp. Do vậy, trong hoàn thiện pháp luật ở phần này cần phải làm sao để nguồn thu ngân sách được gia tăng không ngừng bằng việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế, tăng thu trên chính sự phát triển của các cá nhân, tổ chức kinh doanh trên thị trường Việt Nam cũng như các cá nhân, tổ chức Việt Nam kinh doanh trên thị trường quốc tế, thông qua việc mở rộng thêm các loại thuế và thu quốc gia mà các nước vẫn áp dụng để bao quát hết các nguồn thu nhập .

Thứ tư, hoàn thiện pháp luật ở đây cần phải theo hướng bảo hộ cho nền sản xuất trong nước nhưng phải được tiến hành có trọng tâm, trọng điểm, bảo hộ hợp lý cả người sản xuất và người tiêu dùng. Chỉ tập trung bảo hộ những ngành, nghề có tính chất then chốt, thiết yếu đối với nền kinh tế quốc dân, không bảo hộ tràn lan. Bảo hộ cần phải được khống chế trong khoảng thời gian nhất định. Mức độ bảo hộ cần phải được giảm dần để tiến tới xoá bỏ. Bảo hộ của Chính phủ đối với các cá nhân, tổ chức kinh doanh bằng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan chỉ là tạm thời để giúp cho các cá nhân, tổ chức kinh doanh đó có đủ thời gian phấn đấu tự vươn lên cạnh tranh hoặc trong những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, khủng hoảng, cần thiết để tránh rối loạn thị trường trong nước.

Thứ năm, nguyên tắc của hệ thống thương mại toàn cầu là có đi có lại. Những gì ta cấm hoặc hạn chế đối với các nước thì các nước cũng cấm và hạn chế đối với ta như vậy. Do đó, trong quá trình hoàn thiện pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế phải coi sức mạnh cạnh tranh, tự lực tự cường của tổ chức, cá nhân, hàng hoá và dịch vụ Việt Nam là quyết định. Tuy việc tận dụng những quy định riêng biệt, đặc biệt, khác biệt, các ưu đãi mà WTO và hệ thống thương mại toàn cầu dành cho các nước đang phát triển là rất cần thiết, nhưng cũng phải xác định rằng đó cũng chỉ là tạm thời. Trong điều kiện hiện nay, việc áp dụng những quy định đó là cực kỳ khó khăn, phức tạp. Do vậy, con đường hoàn thiện pháp luật theo hướng phát huy nội lực, sức mạnh trong nước trước yêu cầu gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu cần quán triệt.

2.3. Thực hiện Nghị quyết số 48-NQ /TW của Bộ Chính trị, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 cần quán triệt các quan điểm chỉ đạo sau:

Thứ nhất, thể chế hoá kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của nhân dân; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy văn hoá - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh.

Thứ hai, phát huy cao độ nội lực, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; kết hợp hài hoà bản sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật.

Thứ tư, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật.

Thứ năm, tiến hành đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách tư pháp, với những bước đi vững chắc; coi trọng số lượng và chất lượng, có trọng tâm, trọng điểm; dự tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành của pháp luật.

Về các định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế có thể là:

Thứ nhất, ưu tiên xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và các thiết chế bảo vệ nền kinh tế độc lập tự chủ, bảo vệ quyền và lợi ích của quốc gia, của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam và của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân Việt Nam ở nước ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam với ASEAN, APEC, WTO, các tổ chức quốc tế liên Chính phủ khác và các nước trên cơ sở đẩy mạnh các hoạt động rà soát, đánh giá đúng thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành và dự báo chính xác xu hướng phát triển của tình hình trong nước và quốc tế trong giai đoạn tới.

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật và cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại quốc tế phù hợp với pháp luật, thực tiễn thương mại quốc tế; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cho phép các cơ quan, tổ chức, cá nhân chủ động tích cực hơn nữa trong tìm kiếm các giải pháp thích hợp để phòng, chống các vụ kiện thương mại với tổ chức, cá nhân nước ngoài; nâng cao năng lực giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế của các cơ quan nhà nước cũng như các doanh nghiệp Việt Nam.

Thứ ba, tiếp tục ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Việt Nam thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, kể cả các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường, cải thiện điều kiện lao động, đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, đơn giản hoá trong các thủ tục hành chính công. Song song với việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế, cần có cơ chế hữu hiệu để bảo đảm việc thực thi tốt các cam kết quốc tế đó.

2.4. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế, thương mại của Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế có thể được thực hiện theo những nguyên tắc sau đây:

- Nguyên tắc chung: Đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, kiên trì, bền bỉ điều chỉnh lại hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật cho phù hợp với những nguyên tắc và chuẩn mực của hệ thống thương mại toàn cầu mà tiêu biểu là WTO, thích ứng với những điều kiện cụ thể của đất nước, có những nhượng bộ cần thiết tới mức có thể chấp nhận để hội nhập, tìm mọi biện pháp gia nhập WTO với tư cách là một nước đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi với mức độ phát triển kinh tế thấp để có các quy định pháp luật thích hợp với nghĩa vụ thành viên loại nước đó.

- Các nguyên tắc cụ thể: Thừa nhận các nguyên tắc của hệ thống thương mại toàn cầu, chuyển hoá các nguyên tắc, các quy định pháp luật về kinh doanh trên thương trường quốc tế cũng như các nghĩa vụ pháp lý khác của thành viên WTO và của Việt Nam vào các văn bản pháp luật Việt Nam, dành đãi ngộ tối huệ quốc (MFN), đãi ngộ quốc gia (NT) và các ưu đãi, miễn trừ về thuế quan và phi thuế quan, mở cửa thị trường cho các nước thành viên WTO ở những lĩnh vực có thể được trên cơ sở cùng nhau đàm phán, thoả thuận cụ thể song phương và đa phương phù hợp với thông lệ quốc tế, quy định của WTO, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thương mại của Việt Nam ở từng thời kỳ và trên cơ sở có đi có lại.

Trong quá trình hoàn thiện pháp luật kinh tế, thương mại Việt Nam, các nguyên tắc, quy định pháp luật thương mại quốc tế này được áp dụng cho tất cả các lĩnh vực kinh tế, thương mại mà WTO điều tiết (15). Tuy vậy, cần ưu tiên hoàn thiện pháp luật kinh tế, thương mại Việt Nam để đáp ứng một số yêu cầu sau đây của WTO:

Thứ nhất, thương mại không phân biệt đối xử.

Thứ hai, tự do hoá thương mại.

Thứ ba, bảo hộ nền kinh tế đất nước bằng hàng rào thuế quan.

Thứ tư, nguyên tắc thương mại ổn định và minh bạch, công khai .

Thứ năm, nguyên tắc tăng cường cạnh tranh lành mạnh.

Thứ sáu, về nguyên tắc không hạn chế số lượng hàng hoá nhập khẩu.

Thứ bảy, về quyền được khước từ nghĩa vụ cụ thể và được tự vệ trong trường hợp khẩn cấp .

Thứ tám, nguyên tắc tôn trọng các tổ chức quốc tế khu vực.

Thứ chín, nguyên tắc dành điều kiện thuận lợi hơn cho các nước đang phát triển và chậm phát triển .

Ngoài các nguyên tắc trên, GATT/WTO còn có các quy định khác cho pháp bảo hộ kinh tế trong nước trong những điều kiện nhất định. Chính vì vậy mà việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật kinh tế, thương mại Việt Nam trước yêu cầu của WTO cần được tính toán cụ thể hơn, chi tiết hơn.

3. Kết luận.

1. Hội nhập kinh tế quốc tế là một tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước chúng ta đã được Ngành Tư pháp hưởng ứng, quán triệt và tích cực thực hiện trong suốt sáu mươi năm qua. Tuy vậy, việc nghiên cứu đầy đủ các hoạt động của Ngành Tư pháp thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta ở lĩnh vực này là hết sức cần thiết, giúp chúng ta thực hiện tốt hơn quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập với cộng đồng thương mại quốc tế.

2. Các kết quả rà soát bước đầu của Ngành Tư pháp trong lĩnh vực kinh tế quốc tế là đáng khích lệ. Tuy vậy, cũng cần thấy rằng, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật theo lộ trình của các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã thoả thuận với các nước và các tổ chức quốc tế, đặc biệt là các thoả thuận với ASEAN, IMF, WB, Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU, WTO đặt ra cho Ngành Tư pháp nhiều công việc hết sức nặng nề và phức tạp. Để có thể hoàn thành được các công việc này, cần có những đổi mới quan trọng trong phương pháp làm việc, điều hành công việc cũng như tư duy pháp lý của chúng ta. Sau khi trở thành thành viên của WTO, thì cũng khó có thể lường trước được cái gì sẽ xảy ra đối với các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương khi phải thực thi các cam kết quốc tế của WTO mà ngay cả chuyên gia nước ngoài có nhiều kinh nghiệm cũng không rõ nội dung cam kết cụ thể của nó cần phải hiểu như thế nào cho đúng. Vấn đề gay cấn này đã được chứng minh qua thực tiễn của WTO, khi mà chỉ mười năm tồn tại đã có hơn 300 vụ tranh chấp xảy ra giữa các nước thành viên do không biết phải hiểu nội dung một số quy định cụ thể trong các văn kiện của WTO như thế nào cho đúng. Do vậy, đổi mới trong phương pháp làm việc, điều hành công việc cũng như trong tư duy pháp lý của chúng ta là hết sức cần thiết.

3. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, yếu tố con người là khâu quyết định mọi vấn đề. Việc đào tạo, xây dựng đội ngũ chuyên gia Ngành Tư pháp giỏi về pháp luật quốc tế, pháp luật kinh tế, thương mại quốc tế là cấp bách, trước mắt là để hỗ trợ cho việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật thực thi các quy định của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, các Hiệp định của ASEAN, APEC, IMF, WB, Nhật Bản và các Hiệp định của WTO, hỗ trợ các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp trong giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế.

4. Mở rộng hợp tác với các nước khác nhau, các tổ chức quốc tế để trao đổi kinh nghiệm thực hiện các quy định tương tự quy định của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, các quy định của WTO, IMF, WB và các quy định khác của pháp luật quốc tế là việc làm không thể thiếu được trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Việc hợp tác với nước ngoài về pháp luật như vậy cần theo một quy chế thống nhất để tránh sự trùng lặp, lãng phí và có khả năng đạt được hiệu quả thiết thực, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của nước ta.

1. Bộ Ngoại giao, Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tr. 274.

2, 5-9. Xem, Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, H, 1995, Tập 4, tr. 14-15; Tập 7, tr. 178; Tập 4, tr. 469-470; Tập 5, tr.19; Tập 8, tr. 5; Tập 8, tr. 160.

3. Xem Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, các năm từ 1945-1960.

4. Xem, Hiệp định Sơ bộ ngày 06 tháng 3 năm 1946; và UBQGHTKTQT, Các văn kiện cơ bản của Tổ chức Thương mại Thế giới, H.1/2005, tr. 868.

10 -12,14. Xem, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB. Sự thật, 4-1987, tr. 85; lần thứ VII, NXB. Sự thật, 4-1991, tr. 110-120; lần thứ VIII, NXB. Chính trị Quốc gia, 1996, tr. 120; lần thứ IX, NXB. Chính trị Quốc gia, 4/2001.

13. Xem Công báo số 7-8 ngày 28/02/2002; xem thêm: Xuân Danh, Quan hệ Việt - Mỹ: Những bước thăng trầm hơn 200 năm, Thanhnienonline, ngày 17, 18, 19, 20/06/2005; Dương Trung Quốc - Có một quá khứ không quên, Vietnamnet, ngày 02, 10, 30/06 và 04/07/2005.

15. Xem thêm, http:// www.wto.org/the wto

16. Xem chi tiết, Khoản 3, 4 Điều IX Hiệp định Marrakesh thành lập WTO, trong tập UBQGHTKTQT, các văn kiện cơ bản... Sách đã nêu, tr. 30.

TS. Hoàng Phước Hiệp - Vụ trưởng Vụ Pháp luật quốc tế

Theo Tạp chí Dân chủ pháp luật - Số chuyên đề 60 năm ngành Tư pháp