Thi hành án dân sự, một nhiệm vụ quan trọng của ngành Tư pháp

01/01/0001
Trong tổ chức bộ máy nhà nước ta, thi hành án dân sự là lĩnh vực hoạt động được chú trọng và là một nhiệm vụ của ngành Tư pháp. Qua gần 60 năm hình thành và phát triển, thi hành án dân sự tạo ra những tiền đề quan trọng, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển ngành Tư pháp, xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Ngay từ những năm đầu thành lập nước, khi chính quyền cách mạng đang trong thời kỳ “trứng nước”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều văn bản pháp luật xoá bỏ nền tư pháp của chế độ thực dân phong kiến để xây dựng nền tư pháp nước nhà, trong đó có công tác thi hành án dân sự. Mặc dù, những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám 1945, tổ chức thi hành án dân sự tồn tại dưới hai hình thức là Thừa phát lại và Ban Tư pháp, nhưng cũng đã là một lĩnh vực công tác của ngành Tư pháp, việc thi hành án dân sự thể hiện quyền lực nhà nước và được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế. Nhà nước không chỉ tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong giao lưu dân sự, thương sự và tố tụng, mà còn đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Sau khi Bác Hồ ký Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về “cải cách bộ máy tư pháp và pháp luật tố tụng” thì trong tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự có sự thay đổi từ chỗ việc thi hành án dân sự do Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã thực hiện được thay thế bằng Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của Biện lý. Nhà nước thực thi trách nhiệm thi hành án thông qua việc Toà án chủ động thi hành án dân sự mà không cần chờ đến yêu cầu của các đương sự.

Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1981 ra đời tạo cơ sở pháp lý cho việc Bộ Tư pháp (mới được thành lập sau hơn 20 năm giải thể) đảm nhiệm công tác quản lý Toà án nhân dân về mặt tổ chức, trong đó có việc quản lý về mặt tổ chức đối với nhân sự làm công tác thi hành án dân sự. Tại Nghị định số 143-HĐBT ngày 22/11/1981, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) giao cho Bộ Tư pháp có nhiệm vụ “trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy chế chấp hành án”. Để thực hiện nhiệm vụ này, ngày 18/7/1982, Bộ Tư pháp phối hợp với Toà án nhân dân tối cao ban hành Thông tư liên ngành số 472/TTLN về quản lý công tác thi hành án, theo đó tại các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có Phòng thi hành án nằm trong cơ cấu bộ máy và biên chế của Toà án để giúp Chánh án chỉ đạo công tác thi hành án; ở các Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có Chấp hành viên hoặc cán bộ làm công tác thi hành án dưới sự chỉ đạo của Chánh án. Các cơ quan tư pháp và Toà án từ trung ương đến địa phương, nhất là giữa cơ quan tư pháp và Toà án địa phương nơi thực hiện việc thi hành án phải thường xuyên phối hợp chặt chẽ với nhau trong công tác thi hành án. Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện báo cáo kết quả công tác thi hành án với Sở Tư pháp và Toà án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh báo cáo công tác thi hành án của địa phương mình với Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao.

Ngày 28/8/1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự đầu tiên ở nước ta được ban hành đặt cơ sở pháp lý cho việc tăng cường và hoàn thiện tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự. Từ đó, chỉ có Chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Toà án. Theo quy định tại Nghị định số 68/HĐBT ngày 06/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng, thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định số lượng biên chế Chấp hành viên, cán bộ thi hành án cho từng Toà án địa phương và bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên làm nhiệm vụ thi hành án. Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật về thi hành án cũng được Bộ Tư pháp soạn thảo và ban hành hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan ban hành, như: Thông tư liên ngành số 05-89/TTLN ngày 06/12/1989 của Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tài chính, Uỷ ban Vật giá Nhà nước “Hướng dẫn thực hiện quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự về Hội đồng định giá”, Thông tư liên ngành số 06-89/TTLN ngày 07/12/1989 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp “Hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự”, Thông tư số 394/QLTA ngày 22/5/1990 của Bộ Tư pháp “hướng dẫn thực hiện tiêu chuẩn chấp hành viên và bổ nhiệm chấp hành viên, chấp hành viên trưởng”.v.v.. Sau một thời gian thực hiện, công tác thi hành án dân sự có những bước phát triển hơn cả về mặt tổ chức và hoạt động, tuy nhiên do Toà án vừa là cơ quan xét xử, vừa là cơ quan làm nhiệm vụ thi hành án, nên chưa thực sự đảm bảo khách quan, công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự.

Với đường lối đổi mới, cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng, Hiến pháp năm 1992 và một số đạo luật như Luật Tổ chức Chính phủ năm 1992, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 đã đặt ra những nguyên tắc mang tính nền tảng cho quá trình cải cách tư pháp, trong đó có cải cách về thi hành án dân sự. Tại kỳ họp thứ nhất ngày 06/12/1992, Quốc hội khoá IX thông qua Nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ. Ngày 02/6/1993, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 266/TTg về triển khai việc bàn giao và tăng cường công tác thi hành án dân sự. Trên thực tế, đến hết tháng 6/1993 thì việc thành lập các cơ quan thi hành án và bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ đã được thực hiện xong. Hệ thống cơ quan quản lý công tác thi hành án hình thành từ trung ương đến địa phương do Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý và chỉ đạo thi hành trong phạm vi toàn quốc. ở địa phương, các Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện việc quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự. Đối với công tác thi hành án dân sự trong quân đội, Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Quốc phòng thực hiện nhiệm vụ giúp Chính phủ quản lý và chỉ đạo thi hành án. Cơ quan thi hành án dân sự thành lập ở cấp tỉnh có tên gọi là Phòng thi hành án thuộc Sở Tư pháp. Đội thi hành án được thành lập tại các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và chịu sự quản lý nhà nước của Phòng Tư pháp cấp huyện. Trong quân đội, Phòng thi hành án được thành lập ở cấp quân khu, chịu sự quản lý và chỉ đạo của Phòng quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng. Về mặt thể chế, nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành thi hành án dân sự được ban hành với những quy định chặt chẽ, rõ ràng và phù hợp hơn với thực tiễn thi hành án, trong đó phải kể đến Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21/4/1993, Nghị định số 30/CP ngày 02/6/1993 “về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên”, Nghị định số 69/CP ngày 18/10/1993 “quy định thủ tục thi hành án dân sự”, Thông tư liên ngành số 981/TTLN ngày 21/9/1993 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao “hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự”.v.v. là cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết việc thi hành án dân sự.

Đứng trước yêu cầu đẩy mạnh đổi mới, cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đặt ra, trong những năm gần đây, Ngành Tư pháp luôn xác định công tác thi hành án dân sự là một nhiệm vụ trọng tâm, đặc biệt là sau khi Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX xác định “đẩy mạnh đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp... tập trung thực hiện tốt công tác thi hành án, nhất là thi hành án dân sự, khắc phục cơ bản tình trạng tồn đọng kéo dài”. Bộ Tư pháp đã đẩy nhanh tiến độ soạn thảo để trình các cơ quan có thẩm quyền xem xét, ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự thay thế Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993. Ngày 14/1/2004, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Thi hành án dân sự, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004. Chính phủ cũng đã hoàn thành việc ban hành 03 Nghị định quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh này là Nghị định số 164/2004/NĐ-CP ngày 14/9/2004 “về kê biên, đấu giá quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án”, Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 “quy định về thủ tục, cưỡng chế và xử phạt hành chính trong thi hành án dân sự”, Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 “về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự”.

Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành khẳng định, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thi hành án dân sự trong cả nước, Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự trong quân đội. ở địa phương, Chủ tịch UBND cấp tỉnh và cấp huyện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc thi hành án. Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn giúp UBND cùng cấp quản lý nhà nước về thi hành án dân sự và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn quản lý đối với cơ quan thi hành án ở địa phương theo ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Cơ quan thi hành án dân sự đổi tên từ Phòng thi hành án cấp tỉnh thành Thi hành án dân sự cấp tỉnh, Đội thi hành án cấp huyện thành Thi hành án cấp huyện. Trong quân đội, Cục Thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng được thành lập thay thế Phòng quản lý thi hành án, Phòng thi hành án cấp quân khu đổi tên thành Thi hành án cấp quân khu. Chức danh tư pháp mới xuất hiện ở Cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp và Cục Thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng là Thẩm tra viên cao cấp, Thẩm tra viên chính và Thẩm tra viên; ở Thi hành áp cấp tỉnh, Thi hành án cấp quân khu có Thẩm tra viên chính và Thẩm tra viên; Thi hành án cấp huyện có Thẩm tra viên.

Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển của công tác thi hành án dân sự, đặc biệt là từ sau tháng 6/1993 khi Bộ Tư pháp tiếp nhận nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo công tác thi hành án dân sự, tuy còn những tồn tại nhất định, nhưng công tác thi hành án dân sự đã tạo ra những chuyển biến tích cực về nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và các cơ quan hữu quan về thi hành án.

Hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án dân sự, cùng với pháp luật nói chung đã xây dựng được cơ chế quản lý thống nhất về thi hành án dân sự, hệ thống cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự độc lập với cơ quan xét xử để có điều kiện tập trung cho việc thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Cơ quan thi hành án dân sự không chỉ được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Toà án, mà còn thi hành quyết định của cơ quan, tổ chức khác, như Trọng tài kinh tế Nhà nước các cấp, Trọng tài thương mại.

Tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án đã đã có sự chuyển biến cả về lượng và về chất. Cả nước hiện có 64 Thi hành án cấp tỉnh, 09 Thi hành án cấp quân khu và 660 Thi hành án cấp huyện. Đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự tính đến hết năm 2004 có 2.132 chấp hành viên, trong đó có 331 chấp hành viên cấp tỉnh, 1.801 chấp hành viên cấp huyện (không kể số chấp hành viên của cơ quan thi hành án trong quân đội) và 3.085 cán bộ thi hành án.

Trong việc kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án, Ngành Tư pháp thường xuyên thực hiện đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ thi hành án cho chấp hành viên, cán bộ thi hành, vì vậy trình độ của cán bộ chuyên môn trực tiếp làm nhiệm vụ thi hành án không ngừng được nâng lên so với trước đây. Năm 2003 còn 8% chấp hành viên chưa đáp ứng tiêu chuẩn chức danh nghiệp vụ thì đến cuối năm 2004 chỉ còn 5%, năm 2005 Bộ Tư pháp tổ chức khoá đào tạo nghiệp vụ khoá 4 cho một số cán bộ trong diện nguồn bổ nhiệm chấp hành viên và triển khai thi hành văn bản pháp luật về thi hành án mới ban hành đến các cơ quan thi hành án.

Mặc dù, số lượng việc thi hành án thụ lý tăng gấp nhiều lần so với trước đây, nhưng Ngành Tư pháp đã có nhiều nỗ lực, có gắng để hoàn thành nhiệm vụ. Nhìn chung, các cơ quan tư pháp địa phương và cơ quan thi hành án đã tích cực tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương các biện pháp đẩy mạnh việc chỉ đạo phối hợp giải quyết án có điều kiện thi hành. Nếu so với năm 1994 là năm đầu tiên sau khi Ngành Tư pháp nhận bàn giao công tác thi hành án từ Toà án nhân dân các cấp sang, tổng số vụ việc phải thi hành trên 162 nghìn vụ việc với số tiền phải thu trên 700 tỷ đồng, thì năm 2004, tổng số vụ việc phải thi hành là 511.929 vụ việc, tăng gấp hơn 3 lần so với năm 1994; tổng số tiền phải thu trên 15.682 tỷ 214 triệu đồng, tăng gấp hơn 20 lần so với năm 1994, trong đó có một số vụ án lớn như: Epco - Minh Phụng, Tân Trường Sanh.v.v.. Đặc biệt, nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng lâu năm đã được tổ chức thi hành dứt điểm, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.

Hiện nay, Bộ luật Thi hành án đang được gấp rút soạn thảo để trình cơ quan có thẩm quyền ban hành nhằm khắc phục những bất hợp lý, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc còn tồn tại trong công tác thi hành án, tập trung nhiệm vụ thi hành án về Ngành Tư pháp theo hướng mở rộng phạm vi không chỉ là thi hành án dân sự mà còn một số lĩnh vực thi hành án khác, như: thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ.v.v.. Bộ luật Thi hành án xây dựng trên cơ sở quán triệt quan điểm chỉ đạo điều chỉnh toàn diện các lĩnh vực về thi hành án, tạo cơ chế bảo đảm nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi hành án tập trung vào một đầu mối là Bộ Tư pháp nhưng không tách rời sự quản lý, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương, đồng thời xã hội hoá một phần công tác thi hành án là cơ sở pháp lý để tiếp tục tăng cường, nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác thi hành án nói riêng và Ngành Tư pháp nói chung.

Hoàng Thọ Khiêm - Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự

Theo Tạp chí Dân chủ pháp luật - Số chuyên đề 60 năm ngành Tư pháp